Thứ Năm, 13 tháng 3, 2008

TINH THUC TRUOC TIENG CHUA GOI

Tỉnh Thức

Trước Tiếng Gọi Của Chúa

Muốn đi tu được phải hội đủ ít là hai yếu tố: Chúa muốn và tôi muốn. Nếu Chúa muốn mà tôi không đáp trả, "Chúa cũng phải chịu", vì Ngài tôn trọng tự do của tôi. Nếu tôi muốn mà Ngài lại không muốn - thật buồn 5 phút - tôi cũng phải chịu và hiểu rằng, Ngài có lý do của Ngài. Ơn gọi là một mầu nhiệm!

Dầu sao đi nữa, vấn đề của chúng ta là phải làm điều Chúa muốn mình làm - "Này con xin đến để thi hành thánh ý Chúa" - Do đó, chúng ta phải tìm biết "Chúa muốn tôi đi tu không?" Và đâu là cách giúp chúng ta biết được Chúa muốn tôi đi tu hay không?

1) PHẢI TỈNH THỨC:

Chúa có thể gọi tôi bước theo Ngài vào bất cứ lúc nào trong đời, chúng ta không biết trước được. Chúng ta hãy cùng đọc lại trình thuật Chúa gọi bốn Tông Ðồ tiên khởi:

"Sau khi Gioan bị bắt, Chúa Giêsu sang xứ Galilêa, rao giảng Tin Mừng Nước Thiên Chúa. Người nói: 'Thời giờ đã mãn và Nước Thiên Chúa đã gần đến; anh em hãy ăn năn sám hối và tin vào Phúc Âm'. Ðang lúc đi dọc theo bờ biển Galilêa, Người thấy Simon và em là Anrê đang thả lưới xuống biển, vì các ông là những người đánh cá. Chúa Giêsu bảo các ông: 'Hãy theo Ta, Ta sẽ làm cho các ngươi trở thành những kẻ chài lưới người'. Lập tức các ông bỏ lưới mà đi theo Người. Ði xa hơn một chút, Người thấy Giacôbê con ông Giêbêđê và em là Gioan đang xếp lưới trong thuyền. Người liền gọi các ông. Lập tức các ông bỏ cha là Giêbêđê ở lại trên thuyền cùng với các người làm công, và đi theo Người" (Mc 1:14-20).

Chúng ta thấy, khi gọi các Tông Ðồ, đặc biệt Phêrô, Anrê, Giacôbê, Gioan và Matthêu, Chúa Giêsu đều dùng cùng một thành ngữ: "Hãy theo Ta!". Thành ngữ ấy đến với các ông đều bất ngờ, không ai trong các ông nghĩ trước rằng một ngày nào đó mình sẽ được gặp Ðức Kitô, Ðấng Cứu Thế, và Ngài sẽ gọi mình.

Tỉnh thức nghĩa là khi Chúa đến, tôi gặp được Ngài; Khi Ngài gọi tôi "Hãy theo Ta", tôi nghe được tiếng gọi đó cách huyền nhiệm và tôi "lập tức" đáp lại tiếng Ngài gọi tôi. Trạng từ "lập tức" rất quan trọng. Ðức Kitô đến, các ông đã gặp; mời gọi, các ông đã đáp lời không chút trù trừ do dự. Không ai trong các ông biện luận với Chúa Giêsu rằng: "Xin lỗi ông, ông là ai? Ông không biết điều gì cả! Nếu ông có muốn tôi đi theo ông, ít ra ông cũng phải để tôi xếp lưới, về nhà từ giã cha mẹ, vợ con và người làm công đã chứ!... Không, cả hai trường hợp trên bờ biển Galilêa đều xảy ra như nhau: "Các ông lập tức đi theo Người.

Rồi bờ biển Galilêa, đến bàn thu thuế, ta cũng thấy điều tương tự đã xảy ra:

"Khi ấy, Chúa Giêsu đi ngang qua, thấy một người ngồi bàn thu thuế, tên là Matthêô. Người phán bảo ông: 'Hãy theo Ta!' Ông đứng ngay dậy và đi theo Người. Và xảy ra khi Người ngồi dùng bữa trong nhà, thì có nhiều người thu thuế và tội lỗi đến ngồi đồng bàn với Chúa Giêsu và các môn đệ của Người. Những người biệt phái thấy vậy, liền nói với các môn đệ của Người rằng: 'Tại sao Thầy các ông lại ăn uống với những người thu thuế và tội lỗi như thế?' Nghe vậy, Chúa Giêsu bảo rằng: 'Người lành mạnh không cần đến thầy thuốc, nhưng là người đau yếu! Các ông hãy đi học xem lời này có ý nghĩa gì: 'Ta muốn lòng nhân từ chớ không phải là hy lễ. Vì Ta không đến để kêu gọi người công chính, nhưng để kêu gọi người tội lỗi" (Mt 9:9-13).

Những người đánh cá nghèo nàn như Phêrô, Anrê, Giacôbê, và Gioan có lẽ có phần dễ hơn để sẵn sàng từ bỏ. Trái lại, vấn đề có thể khó khăn hơn cho một người quyền thế và giàu có như Lêvi. Ấy vậy mà cái nhìn mời gọi đầy lòng bao dung của Ðức Kitô đã tạo nên khúc quanh cho cuộc đời của ông: "Lập tức ông đứng dậy và đi theo Người". Thật cũng khó hiểu về giây phút 'dường như không cần suy nghĩ' này của Lêvi.

Có lẽ Ðức Giêsu chỉ đến bờ biển Galilêa để gặp và gọi các ông Phêrô, Anrê, Giacôbê và Gioan có một lần duy nhất, và không bao giờ trở lại với mục đích đó. Trường hợp Lêvi cũng thế, có lẽ Ðức Giêsu chỉ tới bàn thu thuế có một lần, rồi ra đi không hẹn ngày trở lại. Thực tế là không có lần thứ hai. Nhưng giả như có, vấn đề cho các ông vẫn là phải tỉnh thức mới có thể nghe và hiểu được tiếng Ngài; Con tim phải bừng tỉnh để đáp lại lời mời gọi yêu thương của Ngài. Khi tôi còn học ở Việt Nam, tôi và các bạn của tôi trong chủng viện thường hay nhắc cho nhau: "Ơn Chúa qua có một lần." Giả như ơn Chúa, lời mời gọi của Ngài đến trong đời chúng ta hơn một thì thật may mắn cho chúng ta. Kinh nghiệm cho thấy rằng, khi một người đã được Chúa mời gọi bước theo Ngài, họ cần mau mắn, "lập tức" đáp trả lại lời mời gọi đó, bằng không người đó rất dễ rời xa ơn Chúa gọi, nhất là ở hải ngoại. Bao nhiêu người đã ân hận vì đã không đáp trả lại lời mời gọi của Ngài. Chúng ta tạm mượn mối tình nam nữ để phần nào diễn tả sự ân hận này: có anh chàng tiếc rẻ vì đã một lần bỏ lỡ cơ hội se duyên với cô nàng, đã bị cô nàng tặng cho một câu: "Tiếc gì một mớ trầu cay, sao anh chẳng hỏi những ngày còn thơ".

Tục ngữ Anh có câu: "Ðừng than ly sữa đã đổ rồi". Muốn cho ly sữa khỏi đổ để rồi khỏi hoài công tiếc nuối, bạn hãy tỉnh thức để nghe được tiếng Chúa mời gọi. Chắc chắn có rất nhiều người được ơn Chúa gọi, nhưng không nghe được tiếng gọi đó, là vì thiếu tỉnh thức. Nguyên nhân của việc sa sút ơn gọi ngày nay trong Giáo Hội là vì người ta không còn tỉnh thức trước tiếng gọi của Chúa.

Vấn đề quan trọng tiếp theo chúng ta cần bàn là, làm thế nào để ta có thể tỉnh thức được?

2) CẦU NGUYỆN:

Phải, như đã nói, cầu nguyện là chìa khóa số một cho vấn đề ơn gọi. Nó càng là điều kiện cho một người luôn tỉnh thức trước tiếng gọi của Chúa. Dụ ngôn "10 cô trinh nữ" là một giải thích minh bạch và sâu xa cho vấn đề. Chúng ta hãy cùng đọc lại dụ ngôn này:

"Khi ấy Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ dụ ngôn này: Nước Trời giống như mười cô trinh nữ cầm đèn đi đón chàng rể. Trong số đó có năm cô khờ dại và năm cô khôn ngoan. Năm cô khờ dại mang đèn mà không mang dầu theo. Còn những cô khôn ngoan đã mang đèn lại đem dầu đầy bình. Vì chàng rể đến chậm, nên các cô đều thiếp đi và ngủ cả. Nửa đêm có tiếng hô to: 'Kìa chàng rể đến, hãy ra đón người!' Bấy giờ các cô trinh nữ đều chỗi dậy, sửa soạn đèn của mình. Các cô khờ dại nói với các cô khôn ngoan rằng: 'các chị cho chúng em xin chút dầu, vì đèn của chúng em đã tắt cả! - Các cô khôn ngoan đáp lại rằng: 'E không đủ cho chúng em và các chị, các chị ra hàng mà mua thì hơn'. Song khi họ đang đi mua, thì chàng rể đến. Những cô trinh nữ đã sẵn sàng thì theo chàng rể cùng vào dự tiệc cưới, và cửa đóng lại. Sau cùng, các cô trinh nữ kia cũng đến và nói: 'Thưa Ngài, xin mở cửa cho chúng tôi!' Nhưng chàng rể đáp lại: 'Tôi bảo thật các cô, tôi không biết các cô!' Vậy, hãy tỉnh thức, vì các ngươi không biết ngày nào giờ nào" (Mt 25:1-13).

Yếu tố quan trọng trong dụ ngôn này là "dầu". Các cô trinh nữ nếu muốn luôn tỉnh thức, thì phải luôn dự trữ dầu: dầu phải luôn luôn đầy bình! Ở đây, dầu tượng trưng cho cái gì? Chung chung các nhà chú giải đều đồng ý rằng, một cách chính yếu, dầu tượng trưng cho lời cầu nguyện: hết dầu, đèn tắt; hết cầu nguyện, con tim sẽ ngủ quên. Bao lâu còn dầu, bấy lâu đèn còn sáng; bao lâu lời kinh còn được thắp sáng, bấy lâu tình yêu của bạn còn được cháy lên. Bao lâu tình yêu còn được cháy sáng, bấy lâu bạn còn gặp được Ðức Kitô. Người dự trữ dầu và chuyên chăm cầu nguyện, cả hai đều là người khôn ngoan.

Kể dụ ngôn này, Ðức Giêsu muốn ví Ngài là Chàng Rể, là Tân Lang, và mỗi người Kitô hữu chúng ta như là 1 cô trinh nữ, một cô dâu. Chỉ có người khôn ngoan mới gặp được Chàng Rể. Dùng dụ ngôn này, Chúa Giêsu muốn nói đến hai chiều kích khác nhau của ơn gọi, ơn gọi chung của người Kitô hữu, và ơn gọi đặc thù của đời sống tu trì. Thật vậy, dùng hình ảnh "chàng rể" / "trinh nữ", Ðức Giêsu muốn diễn tả mối tình thánh giữa Ngài với mỗi người chúng ta như một cuộc hôn phối thánh, trong đó Ngài là Chàng Rể. Khi Ngài đến, các cô trinh nữ khôn ngoan gặp được Ngài và được sống với Ngài trong cuộc hôn phối thánh này; còn những cô trinh nữ khờ dại, không những không gặp được Chàng Rể lại còn bị trở thành "những kẻ bị vô thừa nhận": "Tôi không biết các cô là ai!"

Cuộc sống tu trì là đỉnh cao của hành trình gặp gỡ Ðức Kitô và sống thân mật với Ngài. Ðược như vậy quả là một hồng phúc cao vời. Muốn được hồng phúc cao vời này, lời kinh cần luôn được thắp sáng.

Như vậy, đoạn Tin Mừng trên không chỉ mang chiều kích bình thường của đời sống đức tin phổ quát, nghĩa là nó nhắc ta phải không ngừng tỉnh thức vì Chúa đến bất ngờ để đưa chúng ta về quê hương mới, hay Chúa đến với chúng ta bất ngờ trong bất kỳ người anh em nào, nhưng còn đặc biệt là lời nhắc nhở chúng ta cần phải TỈNH THỨC TRƯỚC TIẾNG GỌI CỦA CHÚA, để đèn trên tay luôn được thắp sáng, dầu phải được luôn dự trữ đầy bình. Cũng thế, muốn gặp được Chúa để được sống trong tình yêu của Ngài, ta phải luôn luôn thắp sáng lời kinh bằng đời sống liên lỉ cầu nguyện. Giữa hai cô trinh nữ, một cô khôn ngoan và một cô khờ dại, chỉ có một điều khác nhỏ bé thôi: cô trinh nữ khôn ngoan đã biết suy tính và chuyên cần trong việc dự trữ dầu luôn đầy bình!...

Ước gì mỗi người chúng ta trở thành như những cô trinh nữ khôn ngoan, để chúng ta có thể gặp được Chàng Rể, để được Người đưa chúng ta vào đời sống thân mật với Người, thân mật như đời sống của "chàng rể" sống với "cô dâu", nghĩa là để chúng ta sống mãi mãi trong tình yêu hôn phối thánh với Người. Ðây là chiều kích sâu xa nhất của ý nghĩa của dụ ngôn. Ý nghĩa này thật đúng cho những ai luôn luôn tỉnh thức trước tiếng gọi của Chúa, và nó càng thích hợp và mang ý nghĩa sâu xa cho những ai được Chúa mời gọi đi vào cuộc tình hiến tế thánh trong đời sống chỉ dành riêng cho Người, hôm nay, ngày mai và vĩnh cửu... Chính vì thế, Giáo Hội gọi các nữ tu một cách dặc biệt là tân nương, là hiền thê của Ðức Kitô Tân Lang, và ngày Khấn trọn đời như là ngày người nữ tu đèn vẫn sáng trên tay để được Chàng rể dẫn vào hoàng cung, để ở đó, mãi mãi sống cho duy một mình Người, để cùng với Người, nhìn về một hướng, là sống cho mọi người...

Làm thế nào để biết được

Chúa Muốn Tôi Ði Tu hay Lập Gia Ðình?

Ðây là một đề tài lớn và rất ư quan trọng nếu không muốn nói là vô cùng quan trọng, vì chúng ta muốn bàn đến một vấn đề có liên quan và chi phối toàn bộ cuộc đời chúng ta. Trong phạm vi nhỏ hẹp của bài chia sẻ này, chúng tôi không có tham vọng nói hết vấn đề, chỉ xin cùng các bạn trẻ, đưa ra một cách vắn tắt và bao quát vài nét đại cương như sau:

ÐỂ BIẾT ÐƯỠC CHÚA MUỐN TÔI SỐNG ÐỜI SỐNG GIA ÐÌNH HAY TU TRÌ, 4 ÐIỀU ÐỀ NGHỊ CẦN LÀM:

1) CẦU NGUYỆN:

Cầu nguyện chính là chìa khóa của vấn đề ơn gọi.

Thật vậy, đọc lại truyện các thánh, đặc biệt câu truyện về ơn Chúa kêu gọi các Tông Ðồ Phêrô, Anrê, Giacôbê, Gioan, Lêvi..., chúng ta thấy tiếng gọi của Chúa đến thật bất ngờ. Ðiều đó đòi buộc chúng ta phải sẵn sàng, khi Người đến mời gọi chúng ta trong giờ Người muốn. Tinh thần tỉnh thức là tinh thần chung cho mọi bối cảnh, đặc biệt là bối cảnh ơn gọi. Dụ ngôn năm cô trinh nữ khôn ngoan và năm cô trinh nữ khờ dại là những lý lẽ mạnh mẽ giải thích cho chúng ta về sự tỉnh thức này: Năm cô trinh nữ khôn ngoan gặp được Tân lang vì đã biết trữ dầu đầy bình: dầu đây tượng trưng cho lời kinh thắp sáng.

Vậy muốn gặp gỡ được Chúa và nghe được tiếng Người, ta cần phải tỉnh thức. Muốn luôn luôn tỉnh thức, phải cầu nguyện liên lỉ. Khi cầu nguyện liên lỉ, chúng ta sẽ sống gần gũi thân mật với Chúa. Khi sống gần gũi thân mật với Chúa, ta càng nghe rõ tiếng Người gọi ta, cũng như biết rõ được ý định của Người cho ta. Nguyên tắc này đúng cho việc thực hành tu đức cách chung, và càng đúng cho việc chúng ta đi tìm ơn gọi cho cuộc đời của mình.

Có rất nhiều người được Chúa kêu gọi sống đời sống tu trì, nhưng đã lập gia đình, vì người đó hoặc không nghe được tiếng gọi của Chúa, hoặc không nghe đúng tiếng gọi của Chúa (có thể nghe theo tiếng gọi nào khác - nói theo Ðức Gioan Phaolô 2), hoặc nghe được tiếng gọi của Chúa nhưng không sẵn sàng, can đảm và quảng đại đáp trả lại tiếng gọi đó... Họ thiếu đời sống cầu nguyện.

Cầu nguyện là chìa khóa số một cho một vấn đề ơn gọi, cách riêng là ơn gọi tu trì. Chúng ta tìm thấy chìa khóa này nhiều chỗ trong Kinh Thánh. Câu nói căn bản nhất là "Các con hãy xin chủ sai thợ đi gặt lúa của Người". Chúng ta có thể hiểu câu nói này theo hai nghĩa: (a) Nếu ta không xin thì chủ sẽ không sai thợ, nghĩa là nếu ta xin (= cầu nguyện) thì chủ sẽ sai thợ; (b) Nếu ta không xin thì chủ cũng vẫn sẽ sai thợ, nhưng nếu ta xin, chủ sẽ sai đi nhiều hơn, nhờ lời xin (= cầu nguyện) của ta. Và không phải chúng ta chỉ xin cho Giáo Hội một cách chung, nhưng trước hết là cho chính mình, bao lâu mình còn dò dẫm đi tìm ơn gọi cho cuộc đời của mình. Các bạn trẻ cần mạnh dạn chân thành thưa với Chúa: "Lạy Chúa, xin hãy sai con!" Kiên trì trong lời cầu này, Chúa có thể sẽ nhậm lời và sai mình đi, bằng không, chúng ta cũng biết được ý Chúa cho ơn gọi của mình.

Nếu cầu nguyện là cuộc đối thoại với Chúa, bạn hãy chuyên cần thưa với Người:

"Lạy Chúa, Chúa muốn con làm gì? Chúa muốn con sống đời sống nào, sống ơn gọi gia đình hay tu trì? Lạy Chúa, này con xin đến để thực thi ý Chúa! Nếu Chúa muốn, con xin hiến dâng trọn đời con cho Chúa. Xin Chúa ban cho con tất cả mọi ơn cần thiết để sẵn sàng đáp lại tiếng Chúa gọi con. Xin cho con ơn luôn hiểu, biết và thực thi thánh ý Chúa. Nhất là xin cho con ơn khao khát được Chúa sai con vào đời để đáp trả lại tình yêu của Chúa..."

Bạn cần chuyên cần nói với Chúa, đồng thời, chuyên cần, chăm chỉ và khiêm tốn lắng nghe tiếng Ngài nói với bạn. Nếu bạn lắng nghe, bạn sẽ nghe (If you listen to, you will hear)

2) SUY NGHĨ & SO SÁNH:

Trong khi cách thứ nhất mang tính cách siêu nhiên, cách thứ hai này bắt chúng ta vận dụng lý trí: suy nghĩ về từng ơn gọi, sau đó, làm một so sánh giữa hai ơn gọi.

Suy nghĩ: Ta có thể tự đặt ra những câu hỏi như: tôi hiểu gì về đời sông hôn nhân, về lý tưởng hôn nhân? Tôi đã hiểu tường tận về lý tưởng hôn nhân chưa? Tôi hiểu cách sâu xa và đúng đắn tình yêu là gì? Tôi thấy mình tự nhiên hướng chiều mạnh mẽ về đời sống nào? Dựa trên những gì tôi biết, tôi thấy lý tưởng hôn nhân có đẹp không? Nếu đẹp thì đẹp như thế nào? Con đường hôn nhân có giúp tôi nên thánh không? Tôi đã biết Chúa và tôi đã biết tôi bao nhiêu? Tôi biết Chúa thương tôi bao nhiêu? Tôi biết mục đích của đời tu là gì?... Ðâu là ý nghĩa và mục đích của ơn gọi tu trì?...

Chúng ta có thể đặt ra bao nhiêu câu hỏi để suy nghĩ, rồi so sánh...

So sánh để rồi chọn lựa: Ðã nói tới chuyện chọn lựa, trước mặt ta phải có ít nhất hai thứ: ơn gọi hôn nhân và ơn gọi tu trì. Muốn cho sự chọn lựa của ta được chính xác, chúng ta cần phải biết rõ mỗi thứ. Nói cách khác, chúng ta cần phải biết rõ cả hai ơn gọi.

Về Hôn Nhân, chúng ta cần nhấn mạnh đến hai chữ "ơn gọi". Thường chúng ta chỉ biết rõ hơn về đời sống hôn nhân hơn là ơn gọi hôn nhân. Dĩ nhiên chúng ta cần tìm biết cả hai, đời sống hôn nhân và ơn gọi hôn nhân. Nhưng vì thường chúng ta dễ biết về đời sống hơn, nên chúng ta cần quan tâm tìm biết nhiều hơn về ơn gọi hôn nhân.

Về tu trì, chúng ta phải nhận rằng, chúng ta ít biết hơn về đời sống hôn nhân. Do đó, chúng ta cần phải quan tâm hơn trong việc đi tìm hiểu về đời sống và lý tưởng tu trì.

Câu hỏi bao quát chúng ta cần đặt ra là, xét theo bản chất, hôn nhân và tu trì, con đường nào cao đẹp hơn? Nếu theo tự nhiên của lý trí, tôi mong mình được Chúa thương cho bước vào con đường nào?

Ðể được soi sáng cho những suy nghĩ của mình, ta cần sống đời cầu nguyện, và cần đi tìm hiểu về vấn đề ơn gọi.

3) TÌM HIỂU:

Như đã nói trên, nếu chúng ta không đi tìm hiểu để hiểu rõ về cả hai loại ơn gọi, thì sự chọn lựa của chúng ta không bảo đảm chính xác hợp thánh ý Chúa. Do đó, có thể chúng ta sẽ không xác tín về ơn gọi mình đã chọn. Có bao nhiêu người đã than thân trách phận rằng, "Tôi đã chọn lầm ơn gọi của mình!" Có biết bao nhiêu người sau một thời gian cưới hỏi, than rằng, "Phải chi biết trước rằng mình sẽ khổ như thế này, thì tôi đã đi tu rồi!" Thiếu tìm hiểu, quyết định sẽ thiếu chính chắn và chính xác, ngoại trừ khi đón nhận được những ơn đặc biệt của Chúa, nhờ những di sản tinh thần của Ông Bà để lại..., hiểu theo nghĩa "Cây tốt sinh trái tốt".

Vậy tìm hiểu ơn gọi là việc cần thiết của tất cả các bạn trẻ, chứ không phải chỉ dành riêng cho các bạn nào hoặc sắp nhập dòng, hoặc đã quyết định đi tu, hoặc đang nhiêm chỉnh suy nghĩ về đời tu. Như một bổn phận của một người con Thiên Chúa, tất cả chúng ta đều phải nghiêm chỉnh tìm hiểu để tìm ra ơn gọi cho cuộc đời của mình, như phần quan trọng nhất của thánh ý.

Ðây là một vài công việc làm cụ thể cho việc tìm hiểu:

- Tham dự các Ngày tìm hiểu ơn gọi ("Vocation Day", "Come and See").

- Ðọc sách báo nói về ơn gọi (Rất tiếc loại sách này rất khan hiếm!)

- Liên lạc với các giáo phận và các dòng để tìm hiểu. Thường dòng nào cũng niềm nở nói chuyện, tiếp xúc với các bạn, ngay cả đón tiếp những ai muốn đến vài giờ, vài ngày, hay vài tuần để tìm hiểu. Ðây là cách rất thiết thực.

- Các đoàn thể Công Giáo nên tổ chức những ngày hay những buổi Tìm hiểu Ơn gọi cho những thành viên của đoàn.

- Các bạn trẻ có thể liên kết với nhau thành từng "nhóm chia sẻ", để trao đổi, giúp đỡ nhau về lý tưởng và về ơn gọi...

4) SỐNG VỚI MẸ MARIA:

Nghe qua, cách thế này không có ăn nhập gì đến ơn gọi của chúng ta cả! Nhưng thật ra nó rất "ăn nhập".

Nếu một việc nhỏ bé trong đời sống của chúng ta, như một cơn đau bệnh, hay sự bình an trong một chuyến đi... mà chúng ta còn mong có bàn tay của Người Mẹ chúng ta can dự vào, phương chi là công việc tối quan hệ này, việc đi tìm ơn gọi cho cả cuộc đời của mình!... Ðã nhiều lần, đặc biệt lần trong Thông Ðiệp Mẹ Ðấng Cứu Thế, Ðức Gioan Phaolô II, Vị Giáo Hoàng của Mẹ Maria, đã dạy cho chúng ta rằng, Cần phải ý thức mạnh mẽ về sự hiện diện đặc biệt của Mẹ Thiên Chúa trong mầu nhiệm Chúa Kitô và Giáo Hội Ngài" (Tông Huấn Mẹ Ðấng Cứu Thế, số 48). Hãy để Mẹ hiện diện trong cuộc đời của bạn, để Mẹ lo cho bạn, lo cho tương lai ơn gọi của bạn. Hãy thưa với Mẹ như Ðức Gioan Phaolô II: "Totus Tuus", nghĩa là: "Toàn thân con thuộc về Mẹ. Xin Mẹ hướng dẫn con trong mọi sự!"

Trong bản thánh ca "Tâm ca đồng hành số 1", câu quan trọng nhất tôi đã viết là: "Tình Mẹ đưa con đi vào hành trình hiến dâng". Phải, tôi không tự mình quyết định, nhưng đã phó thác cho Mẹ, để theo sự khôn ngoan của Mẹ, quyết định cho ơn gọi của tôi.

Ðối với người nữ, Ðức Gioan Phaolô II nói: "Khi nhìn về Ðức Maria, người phụ nữ tìm thấy trong mẹ bí quyết để sống xứng đáng nữ tính của mình và để hoàn thành sự thăng tiến của riêng họ..." (Thông Ðiệp "Mẹ Ðấng Cứu Thế", số 46). "Mẹ Maria là 'khởi điểm mới' của địa vị và ơn gọi của mỗi người và của mọi người phụ nữ". (Trích Tông Thư "Ðịa vị và ơn gọi của người phụ nữ" của Ðức Gioan Phaolô II, số 11).

KẾT LUẬN

Ðể có thể tìm ra ơn gọi thứ hai của mình trên hành trình đức tin, hoặc đi tu hay lập gia đình, chúng ta cần làm bốn việc: (1) Cầu nguyện, (2) Suy nghĩ & so sánh, (3) Tìm hiểu, (4) Sống với Mẹ Maria. Tuy vậy, mấy trang ngắn ngủi này chỉ là một vài gợi ý và đề nghị căn bản cho các bạn, đặc biệt cho những ai đang thao thức đi tìm chân lý, và một tiếng gọi thiên ân cho cuộc đời.

Mong rằng bạn sẽ xác tín về ơn gọi bạn sẽ chọn lựa, rằng "đây là ơn Chúa gọi tôi", để bạn sẽ không bao giờ đứng núi này trông núi nọ, rồi hối tiếc cho cái số phận mà chính bạn cho là hẩm hiu của mình. Cầu chúc bạn mãi mãi "enjoy" ơn gọi bạn sẽ chọn trong một buổi chiều Xuân thật đẹp, khi tới giờ Ðức Giêsu đến gõ nhẹ cửa tâm hồn của bạn: "Hãy theo Ta!"

Lời hay ý đẹp

- Sự sống còn của Giáo Hội tùy thuộc vào ơn gọi linh mục tu sĩ - The future of the Church depends on vocations (Ðức Gioan Phaolô II)

-Chúng ta nhận thấy rằng, phần chủ yếu của mọi ơn gọi đều tùy thuộc về Thiên Chúa. Vì thế, cầu nguyện là quan trọng. Một trong những phương tiện chính yếu của việc cổ động ơn gọi là cầu nguyện - We recognize that the initiative for every vocation rests with God. Hence the importance of prayer. One of the principal means for promoting vocations is prayer (Ðức Gioan Phaolô II)

Những Khái Niệm Căn Bản
Về Ơn Gọi

Ơn Gọi là gì?

Ðể trả lời cho vấn đề, trước hết, chúng ta cần nói qua khái niệm về hai chữ "Ơn gọi".

Ơn gọi là một tiếng gọi yêu thương của Chúa cho con người từ muôn thuở. Có một bài thánh ca chúng ta thường hát: "Từ muôn đời Chúa đã yêu con, và còn yêu con mãi mãi..." Ðã gọi là tiếng gọi từ muôn thuở, chúng ta không có thể nói rằng, Chúa gọi tôi cách đây mấy năm, hay Chúa vừa gọi tôi, hay tôi chờ xem Chúa có gọi tôi hay không..., nhưng phải nói rằng, Nếu Ngài gọi, Ngài đã gọi tôi từ lâu rồi, từ khi tôi chưa được sinh ra, từ khi chưa có loài người sống trên mặt đất, từ khi chưa có sao trời, rừng sâu và biển cả... Tiếng gọi của Ngài dành cho tôi đã phát xuất từ chính Ngài, vang vọng vào không gian, vào vũ trụ vô hình bằng những làn sóng mắt thường không trông thấy, và Ngài mong một ngày nào đó tôi nghe được tiếng gọi đó.

ƠN GỌI THỨ NHẤT:
LÀM CON THIÊN CHÚA

Thời điểm ơn gọi thứ nhất đến với mỗi người chúng ta có thể mỗi khác: người được rửa tội từ khi mới sinh, người lúc lên mười, hai mươi, có người mãi đến lúc về chiều mới lần đầu tiên gặp được Chúa... Nhưng chung quy, tất cả chúng ta, những người Kitô hữu đều có ơn gọi này ơn gọi làm con Thiên Chúa. Ðây là một ơn Chúa ban cho chúng ta cách nhưng không, là một món quà vô giá mà không phải ai cũng có - Chúa ban cho ai, người ấy được. Người ta có thể tốn cả triệu đôla mà chưa chắc đã mua được món quà này. Ðây chính là ơn gọi thứ nhất trong cuộc đời của một con người, chúng ta gọi là ơn gọi căn bản và phổ quát, căn bản vì là ơn gọi đầu tiên, phổ quát vì chung cho mọi người Kitô hữu.

Qua phép Rửa, Thiên Chúa thông ban ơn cứu độ cho chúng ta trong Ðức Giêsu Kitô. Việc gia đình ông Noê được cứu thoát khỏi nước lụt đại hồng thủy được kể lại trong Cựu Ước là hình ảnh tiên báo cho Bí Tích Rửa Tội sau này trong thời Tân Ước. Trong Phép Thanh Tẩy, Thiên Chúa giơ tay Ngài ra để cứu thoát chúng ta khỏi những trận lụt của khốn khổ, khỏi sự nhận chìm trong những vũng bùn sâu của tội lỗi. Hơn nữa, sau khi Chúa cứu thoát ông Noê khỏi bị lụt, Ngài đã tạo nên chiếc cầu vồng như dấu chỉ của Tình yêu và lòng thương xót của Ngài. Cầu vồng là một dấu hiệu cho biết rằng, lụt lội và nguy hiểm đã qua rồi. PHÉP RỬA TỘI là CHIẾC CẦU VỒNG CỦA NGƯỜI KITÔ HỮU. Ngay cả sau khi chúng ta lãnh nhận Bí tích Rửa tội, chúng ta sẽ vẫn còn thấy những đám mây ác thần vây phủ chúng ta; chúng ta sẽ vẫn còn thấy những tiếng sấm gầm vọng từ xa của thù địch chỉ muốn tiêu diệt chúng ta. Nhưng Bí tích Rửa tội luôn làm cho chúng ta ý thức rằng, chúng ta không phải sợ hãi những thứ sấm sét bão tố đó đang đe dọa cuộc sống chúng ta. Bí tích Rửa tội vẫn luôn luôn là dấu chỉ của lòng thương xót và Tình yêu Thiên Chúa, qua đó, Ngài không cho phép nước lụt của thù địch và của sự dữ tiêu diệt chúng ta.

Trong Ðêm Phục sinh, chúng ta được mời gọi để lập lại lời hứa Rửa tội. Vấn đề của chúng ta là, chúng ta có ý thức những gì chúng ta tuyên xưng trong lời hứa đó không? Chúng ta cần nhớ lại chúng ta đã hứa những gì qua cha mẹ đỡ đầu, hoặc do chính chúng ta hứa nếu chúng ta chịu phép rửa tội khi đã khôn lớn? Thánh Phêrô cho rằng, điểm cốt yếu trong lời hứa Rửa tội đó là "một lương tâm thiện hảo" (I Pr 3:21). Bí tích Rửa tội là một khế ước, một thỏa thuận giữa chúng ta và Thiên Chúa: Thiên Chúa hứa ban cho chúng ta Tình yêu và lòng thương xót của Ngài, và chúng ta hứa sẽ sống trung thành với Ngài. Ngài trở thành Chúa chúng ta và chúng ta trở thành dân của Ngài.

Việc lập lại lời hứa rửa tội phải được tiếp nối cách sống động trong đời sống hằng ngày của chúng ta, nghĩa là chúng ta phải luôn nghiêm chỉnh ý thức sống ơn gọi thứ nhất này. Sau ơn gọi thứ nhất này, chúng ta có bổn phận đi tìm thánh ý Chúa cho ơn gọi thứ hai của mình, ơn gọi có "ơn làm con Thiên Chúa" làm nền tảng.

ƠN GỌI THỨ HAI:
ƠN GỌI TU TRÌ HOẶC ƠN GỌI HÔN NHÂN

Trong ơn gọi thứ nhất, chúng ta trở thành người con Thiên Chúa và người môn đệ của Chúa Giêsu. Với tư cách là môn đệ, chúng ta mãi mãi được mời gọi bước theo Thầy Chí Thánh của mình. Những lời mời gọi của Chúa Giêsu luôn theo đuổi cuộc đời chúng ta: "Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mà theo Ta".

Vì thế, dù chúng ta chịu phép rửa tội vào lứa tuổi nào chăng nữa, đức tin vẫn luôn đòi hỏi chúng ta phải mãi mãi trung thành với lời chúng ta hứa khi chịu phép rửa tội: "Từ bỏ tội lỗi, từ bỏ những quyến rũ bất chính, từ bỏ ma quỷ; Tin Thiên Chúa là Cha, là Ðấng tạo thành trời đất, tin Ðức Giêsu Kitô, Con Một Thiên Chúa, Chúa chúng ta, sinh bởi Ðức Trinh Nữ Maria, đã chịu khổ hình và mai táng, đã sống lại từ cõi chết và đang ngự bên hữu Chúa Cha, tin kính Ðức Chúa Thánh Thần, tin Hội Thánh Công giáo, tin các thánh thông công, tin phép tha tội, tin xác sống lại và sự sống đời đời..."

Sau khi nhận bí tích đầu tiên đó, chúng ta tiếp tục lãnh nhận các bí tích khác để giúp chúng ta kiên trì và thăng tiến trong đời sống ơn gọi căn bản của mình. Ðặc biệt, sau ơn gọi thứ nhất đó, Chúa còn mời gọi chúng ta bước theo Ngài trong ơn gọi thứ hai trên hành trình đức tin: Hoặc là ơn gọi đời sống hôn nhân, hoặc là ơn gọi sống đời sống tu trì.

Không sớm thì muộn, ai trong chúng ta cũng đều phải chọn lựa một trong hai ơn gọi đó: Ði tu hay lập gia đình?

"ÐÀN ÔNG Ở MỘT MÌNH KHÔNG TỐT":

Ðây là câu nói trong sách Sáng thế ký, cuốn đầu tiên của Cựu Ước, đoạn 2 câu 18 (Tiếng Anh: "It is not right that the man should be alone").

Câu Lời Chúa này gợi cho chúng ta hai vấn đề:

1) Từ khởi nguyên, Chúa tỏ ý rằng, Ngài muốn con người sống có đôi. Nhiều người dùng câu nói Kinh Thánh này để biện luận khi họ không muốn đi tu - "Ðàn ông ở một mình không tốt" như vậy phải lấy vợ... - Cũng có lý, nhưng cần phải hiểu rằng, Chúa, nhất là trong Tân Ước, đồng thời cũng mời gọi chúng ta bước một bước xa hơn nữa trên con đường hẹp của Tin Mừng, để sống hiến dâng trọn vẹn cho Thiên Chúa bằng một tình yêu không chia sẻ. "Ðức Giêsu kêu gọi một số người đi theo Ngài cách gần gũi hơn để Giáo Hội trở thành một dấu hiệu hùng hồn của ơn vinh thắng" (Trích từ Sứ Ðiệp được truyền đi từ Thượng Hội Ðồng Giám Mục, tháng 10/94 tại Roma).

2) Ðàn bà ở một mình có tốt không? Có người nói: Ðàn ông ở một mình không tốt, đàn bà ở một mình thì tốt. Không biết chắc chắn ý Chúa thế nào đối với người phụ nữ, nhưng tôi thiển nghĩ, Nếu "đàn ông ở một mình không tốt", thì đàn bà ở một mình càng không tốt hơn!... - Dường như con rắn đã khôn ngoan tìm lúc không có người nào bên cạnh người phụ nữ để cám dỗ...

Tắt một lời, dù đồng ý rằng sống độc thân ở giữa đời cũng là một ơn gọi, nhưng cách chung, dựa theo Lời Chúa, tôi không "recommend" các bạn trẻ, nam cũng như nữ, sống độc thân giữa đời.

Như vậy, chúng ta tạm để qua một bên cái "choice" thứ ba này.

HAI ƠN GỌI, HAI BẬC SỐNG

Như vừa nói trên, chúng ta sẽ phải chọn lựa một trong hai ơn gọi: một là đi tu, hai là lập gia đình, chứ không ai "bắt cá hai tay" được cả! Ðó là người sống tích cực. Hai ơn gọi này dẫn đến hai bậc sống khác nhau: bậc sống tu trì và bậc sống gia đình.

Hai bậc sống này có những điểm giống nhau, như: họ đều phải nỗ lực để nên thánh, xây dựng Giáo Hội, truyền giáo... Nhưng cũng có những điểm khác nhau, như: đời sống gia đình lo việc truyền sinh về thể lý, mặc dù có góp phần về đời sống tinh thần, còn đời sống tu trì chuyên lo việc truyền sinh về đời sống thiêng liêng; Mọi người đều thuộc về dân Thiên Chúa, nhưng các tu sĩ, linh mục, nhất là Giám mục là những người ở "cấp lãnh đạo" dân của Người, mặc dù họ cũng là một phần tử trong dân của Người; tình yêu trong đời sống gia đình tuyệt đẹp, nhưng trong đời sống tu trì, xét theo bản chất còn đẹp hơn nhiều!... Mong các bạn khôn ngoan chọn lựa!...

Chúng ta sẽ bàn về những điểm tương dị của hai ơn gọi này ở hai bài chia sẻ khác.

YẾU TỐ TÌNH YÊU TRONG MỌI ƠN GỌI

Như chúng ta vừa nói ở trên, có hai ơn gọi, vấn đề là chúng ta có thực sự sống ơn gọi của mình hay không. Ðể hiểu và sống ơn gọi, chúng ta cần phải hiểu yếu tố quan trọng của ơn gọi: TÌNH YÊU.

Trong phần này, tôi xin nhường lời cho Mẹ Têrêxa Calcutta. Mẹ nói:

"Một cách đơn giản, ơn gọi là một tiếng gọi để tôi hoàn toàn lệ thuộc vào Ðức Kitô, với ý thức rằng, không gì có thể tách tôi ra khỏi Tình yêu của Người.

"Ơn gọi là một lời mời gọi để sống trong tình yêu với Thiên Chúa và để minh chứng tình yêu đó.

"Tôi yêu mến Chúa thế nào? Tôi minh chứng tình yêu của tôi cho Thiên Chúa thế nào?

"Thưa, bằng cách làm thật tốt đẹp công việc được trao phó, bằng cách thực hiện một cách đơn sơ những gì Chúa ủy thác cho tôi dưới bất kỳ dạng thức nào.

"Chẳng hạn như cuộc sống của các chị em đã tuyên khấn - đúng như trên thực tế, họ đã trở thành hiền thê của Chúa Giêsu chịu đóng đinh - đó là ơn gọi của họ: yêu Chúa Giêsu bằng một tình yêu không chia sẻ, qua đức khiết tịnh, qua sự tự ý sống thanh bần, qua việc hoàn toàn từ bỏ mình trong đức vâng phục, và qua việc tự ý hết lòng phục vụ những người nghèo nhất của những người nghèo. Họ minh chứng tình yêu của họ đối với Thiên Chúa bằng việc đặt tình yêu đó trong những hành vi sinh động.

"Như thế, dù bạn được trao phó cho bất kỳ công việc gì, với tư cách một tu sĩ, hay một giáo dân - đó là phương tiện cho bạn để bạn dành tình yêu của bạn cho Thiên Chúa trong một hành vi sinh động, trong một hành vi của tình yêu... Bất kỳ khi nào bạn mỉm cười với một người nào đó, nụ cười đó là một hành vi của tình yêu, là một món quà cho người đó, một cái gì thật đẹp...

"Do đó, nếu tôi biết làm thế nào để yêu mến Ðức Kitô, nếu tôi muốn biết tôi có thực sự ở trong tình yêu với Thiên Chúa không, tôi chỉ cần nhìn xem tôi đã làm công việc Ngài đã trao phó cho tôi như thế nào - Có bao nhiêu tình yêu tôi đã đặt vào trong công việc của tôi.

"Bạn thấy đó, Vấn đề của ơn không hệ tại ở chính công việc - ơn gọi của chúng ta là trọn thuộc về Ðức Giêsu với ý thức rằng, không gì có thể tách lìa chúng ta ra khỏi tình yêu của Người.

"Ơn gọi không phải là những gì chúng ta đang làm, hay chúng ta làm được bao nhiêu việc, mà là bao nhiêu tình yêu tôi đã đặt vào công việc tôi đã được trao phó.

"Những gì bạn đang làm, có thể tôi không làm được... Những gì tôi đang làm, có thể bạn không làm được, nhưng tất cả chúng ta đều có thể làm cái gì đó thật đẹp cho Thiên Chúa". (Trích dịch từ "The best Gift is Love / Meditations by Mother Teresa", tr.113-116).

Mùa Xuân và Niềm Tin
Tuổi Trẻ và Ơn Gọi

Các bạn trẻ thân mến,

Ðến với các bạn qua những lời tâm sự này khi mùa xuân đang về với chúng ta, lời đầu, tôi xin cầu chúc các bạn một năm mới tìm ra hướng đi mới cho cuộc đời mình, hướng đi phù hợp với mộng ước của các bạn, và nhất là phù hợp với thánh ý Thiên Chúa.

Qua những gì ghi lại trong những loạt bài chia sẻ này, tôi chỉ ao ước được hầu chuyện, được trao đổi một vấn đề mà tôi cho là thuộc loại quan trọng nhất - nếu không muốn nói là quan trọng nhất - trong cuộc đời của các bạn: vấn đề ƠN GỌI. Nói hai chữ "Ơn gọi" có thể có bạn lại muốn để hai chữ này qua một bên, vì nghĩ rằng, "lại nói chuyện TU nữa!..." Xin các bạn hãy bình tĩnh một chút nhé! Xin vui lòng nghe tôi giải thích: Chữ "ƠN GỌI" tôi muốn nói chuyện đây mang một ý nghĩa chung cho mọi ơn gọi, trong đó bao gồm cả ơn gọi của đời sống hôn nhân nữa! Vậy nếu bạn đồng ý, xin bạn chịu khó nghe tôi tiếp tục hàn huyên với bạn nhé! Bằng nếu các bạn không thích nghe hết những gì tôi sẽ chia sẻ, xin cũng rán cho tôi được thưa chuyện với bạn "một chút" thôi, một chút để chia sẻ với các bạn về Mùa Xuân Niềm Tin, mùa xuân của Tuổi Trẻ và Ơn Gọi.

Mùa xuân niềm tin, trước hết là mùa xuân của những người có niềm tin, mùa xuân của những người luôn mang trong mình Ðức Kitô, tức là mang trong mình mùa xuân vĩnh cửu. Ở đây tôi muốn nói đến mùa xuân đó ở một chiều kích sâu xa hơn, chiều kích của những người trẻ biết sống hào hùng, biết hướng đời mình về một vùng trời lý tưởng, lý tưởng được diễn tả trong ơn gọi Chúa dành riêng cho mình, hoặc trong ơn gọi của đời sống hôn nhân hay trong ơn gọi của đời sống tu trì.

Người trẻ sống trong mùa xuân rộn tiếng chim ca, bản tình khúc thánh ân trong nắng ấm thiên đường, khi người trẻ sống mà có định hướng cho tương lai, sống mà có lý tưởng, sống mà "enjoy" ơn gọi do chính mình lựa chọn một cách tự do, trưởng thành, và xác tín. Xác tín rằng đây là Ơn Chúa gọi tôi.

Tôi tạ ơn Thiên Chúa đã vẫn tạo điều kiện và thời gian thích hợp, tuy eo hẹp nhưng cũng tạm đủ để tôi có dịp để chia sẻ với các bạn. Tôi cũng xin cám ơn các bạn, bằng những cách khác nhau, kể cả cách vui lòng dù tình cờ hay hữu ý cho tôi được tiếp chuyện về lý tưởng và ơn gọi, đã làm nên một phần động lực cho những loạt bài chia sẻ này ra đời. Dù câu chuyện của chúng ta còn dài, nhưng qua những dòng chữ này, tôi được thưa "vội" với các bạn "vài câu" thân ái chia sẻ và gửi lời chào các bạn. Xin Ðức Kitô luôn là người Bạn đồng hành với bạn trên mọi nẻo đường của cuộc sống. Nguyện Mẹ Maria luôn hướng dẫn cuộc đời các bạn, nhất là xin Mẹ giúp các bạn noi gương Mẹ, biết sẵn sàng, quảng đại và can đảm đáp trả lại lời mời gọi yêu thương của Con Mẹ vào một ngày có chim én chào mừng Mùa Xuân, có nắng dịu sưởi ấm lòng người băng giá...

Rước Lễ -- Nguồn Ðức Ái

Linh Mục M. Manso, Dòng Tên, người Tây Ban Nha (có tên Việt Nam là Mai Sơn), từ 1962 - 1975 sống ở Thủ Ðức, Việt Nam, phụ trách phong trào Linh Thao. Ngài thường đi nhiều nơi hướng dẫn Linh Thao và viết sách bằng tiếng Việt. Sau 1975, vì hoàn cảnh đất nước, ngài rời khỏi Việt Nam, qua phục vụ tại Ðài Loan. Hiện nay, sau 22 năm tại Ðài Loan, tiếng Việt của ngài vẫn còn rất trôi chảy. Kỳ này chúng tôi phổ biến bài viết bằng tiếng Việt của ngài nói về Nguồn Ðức Ái và Bí Tích Thánh Thể. Hy vọng bài này sẽ là một tài liệu hữu ích cho giáo dân Việt Nam trong đời sống đạo giữa những môi trường đầy phức tạp của ngày nay. Nguyện xin Thiên Chúa Toàn Năng ban ơn thánh hóa xuống cho mỗi một người dân Việt để luôn biết sống vị tha, yêu thương, và trung thành.
(Vietnamese Missionaries in Taiwan)

Tôi đã đọc truyện một chàng thiếu niên mới 17 cái xuân xanh, nhưng lại là một vị anh hùng. Câu truyện như sau:

Phaolô là một thiếu niên can trường và bình dân. Anh đứng đầu một đám bạn hữu có nhiều thiện cảm và ưa hoạt động.

Một hôm, nhân ngày lễ làng, có một anh quen thuộc ở làng bên, không những đã công khai nhục mạ anh Phaolô, mà còn vô cớ đả thương, rồi bỏ chạy. Bạn hữu Phaolô, khi hay tin, liền tìm gặp và đề nghị với anh một kế hoạch trả thù là đi chặn bắt ngay anh kia để đả cho một trận. Nhưng, Phaolô ngó nhìn các bạn và nói: "Tôi tuyệt đối không đồng ý!"

Các bạn anh nhao nhao lên hỏi vặn lại:
"Tại sao lại không?
Phaolô nghiêm nghị trả lời:
"Vì, thưa các bạn, tôi vừa rước lễ sáng nay!"

Nguồn Ðức Ái

Giáo Hội đang nhờ phép Thánh Thể để tái tạo sự Hiệp Nhất của mình, thì Rước Lễ chính là Nguồn Ðức Ái tuyệt hảo nhất. Thực vậy, vì chỉ có Hiện diện Thánh Thể mới cổ võ được lòng yêu thương và tình hòa hiệp, và chỉ có Thánh Thể mới làm qui tụ được tất cả các phần tử của cộng đoàn về với trung tâm duy nhất của nó, là tâm điểm của mọi tình thương. Song, Tiệc Thánh Thể lại còn tiến xa hơn nữa. Vì ngọn lửa yêu tha nhân, hằng bùng cháy mạnh mẽ trong Thánh Tâm Thầy Chí Thánh, đã lan tỏa và đốt cháy các trái tim được tình yêu Chúa Giêsu san sẻ cho.

Ðức Ái Kitô Giáo chỉ được thực hiện khi mà Tình Yêu Thiên Chúa trong Ðấng Cứu Thế chuyển sang cho nhân loại. Thực vậy, Ðức Ái này không phải là một thứ tình yêu tầm thường của những ai khác. Vì Chúa Giêsu đã xác định rõ ràng thế nào mới là tình tương thân tương ái của môn đệ Ngài và đâu là mẫu mực phải theo: "Ðây, Ta ban cho các con một điều răn mới là các con hãy yêu thương nhau; phải, các con hãy yêu thương nhau như Ta đã yêu thương các con". (Jn 13,34).

Cựu Ước cũng đã nói đến một tình thương lớn lao đối với tha nhân; còn điều "mới" ở đây là các môn đệ Chúa Giêsu phải biết yêu thương nhau bằng chính Tình Yêu vủa Ðức Kitô. Ðối với họ, có thiện cảm tự nhiên đối với nhau, trao đổi cho nhau những tình cảm nhân loại về tình liên đới, về lòng hào hiệp và về sự tương trợ, như thế chưa gọi được là đủ. Nhưng là phải yêu mến nhau bằng chính tình thương cao thượng, siêu nhiên và linh thiêng mà Chúa Cứu Thế đã yêu thương chúng ta.

Thế nào là yêu mến tha nhân bằng chính mãnh lực Tình Yêu Ðức Kitô? Tiệc Thánh Thể sẽ ban cho chúng ta mãnh lực siêu việt của Tình Thương ấy với chính thân mình Ðức Kitô. Chính vì thế mà Chúa chúng ta đã thiết lập điều răn mới bằng việc nối kết với Thánh Thể. Hai sự việc mới mẽ Chúa đề nghị cùng chúng ta là Bí Tích mới và Ðiều Răn mới. Ðức Kitô muốn đến ở trong trái tim các môn đệ Ngài để có thể yêu mến bằng chính trái tim họ. Vì thế, các Kitô hữu có khả năng yêu thương nhau như chính Ðức Kitô đã yêu thương họ, vì chính Chúa Giêsu đã đặt để cái nguyên lý, nguồn tình yêu của Ngài ngay trong lòng họ.

Lúc mà Ðức Kitô thiết lập Tiệc Thánh Thể, Ngài phải chứng kiến một cuộc cãi vã giữa các môn đệ: họ đã tự để cho tình yêu riêng lôi cuốn vào vòng ganh tị, và họ đã tranh dành với nhau để xem ai sẽ là người lớn nhất trong nước của Ðức Giêsu. Thầy Chí Thánh liền đáp ứng lại cuộc cãi vã ấy bằng việc rửa chân cho họ: Ðó là bằng chứng của một tình yêu thích khiêm tốn phục vụ tha nhân và muốn được ở hàng cuối rốt.

Phép Thánh Thể sẽ ban cho mãnh lực siêu phàm, một mãnh lực tối cần cho các môn đệ để bắt chước Ðức Ái khiêm nhượng ấy. Việc Chúa Giêsu tự hiến làm của nuôi cho các kẻ thuộc về Ngài là một tác động tình yêu đi đến tận cùng căn bản của đức Khó Nghèo: Chúa Cứu Thế tự hạ cho đến nỗi trở thành của ăn của uống cho người ta! Thật Ngài không còn có thể tự hạ hơn như thế được nữa! Và như vậy, Ðức Kitô cũng sẽ làm cho sự khiêm cung của tình yêu thương thấm nhập vào tận linh hồn những kẻ rước lễ.

Vậy là rước lễ lấn át được tất cả mọi cuộc cãi vã. Nó đem lại một lòng khiêm nhượng hơn là những cuộc tranh giành thường xảy ra giữa những con người tự phụ. Nó làm cho người Kitô hữu có đủ năng lực trị dẹp những quyến luyến ích kỷ, quên mình tự hiến cho kẻ khác và phụng sự người ta bằng việc tình nguyện chấp nhận ở hàng cuối rốt. Họ tự cảm thấy hoàn toàn bất lực với sức riêng mình để thực hiện tất cả các điều ấy, nhưng Ðấng Cứu Thế đến thực hiện tất cả cho họ. Ngài đến khích lệ chúng ta bằng nguyên động lực của lòng từ ái Ngài.

Như thế, Tiệc Thánh Thể phải lưu ý cho mọi người tham dự biết một cuộc phát khởi mới nhắm vào tình yêu tha nhân. Nơi nào có bất hòa thì nó sẽ làm phát sinh ra sự hòa giải, rồi cung cấp cho phương tiện để thực hiện điều hòa giải ấy. Ðức Kitô Thánh thể là Ðấng, xưa kia khi ở trên khổ giá đã hoàn toàn tha thứ cho các thù địch Ngài; thì nay Ngài cũng dạy cho người rước lễ biết tha thứ mọi lỗi lầm, biết xóa bỏ tất cả những gì còn lại của oán thù. Ngài đến để cất khỏi mọi trở ngại cho sự kết hợp.

Rước lễ vừa gắng thanh luyện tình yêu chúng ta, lại vừa làm cho chúng ta yêu thương nhau sâu đậm hơn:

a) Một đàng, Rước Lễ thúc đẩy chúng ta tới một mức độ tinh tế tuyệt đích trong tình bác ái được thể hiện ra bên ngoài, trong việc tận tụy, chuyên tâm và ân cần, trong sự ưu ái vui tươi kèm theo với nhẫn nại và dịu dàng. Rước lễ cũng cho phép chúng ta làm chủ một cách rất ngon lành những thay đổi của tính tình, những dễ cảm cũng như những nổ xung thường bột khởi do những tiếp xúc thường ngày với kẻ khác gây ra.

b) Ðàng khác, Rước Lễ làm cho tình yêu có những chiều hướng nội tâm hơn. Trước hết, Ðức Ái cốt tại có một chủ tâm, và cốt yếu gồm có một hảo ý, một lòng quí chuộng căn bản đối với tha nhân. Và cùng lắm thì cũng có thể có một sự tận tụy bề ngoài và một lòng ưu ái chỉ có hời hợt trên môi miệng mà thôi và đồng thời lại có một tình cảm khinh khi hay một điệu khắc nghiệt về phê phán đối với tha nhân. Trong trường hợp này, quả Ðức Ái chưa có đủ trong sạch cũng như chưa có đủ thành thật. Ðức Kitô đã ban cho một gương sáng về lòng nhân từ mà căn bản của nó là chính lòng quí chuộng và sự tử tế. Ngài đã ghé mắt đoái nhìn hết thảy mọi người bằng chính cái nhìn mà xưa kia Ngài đã âu yếm nhắm tới chàng thanh niên muốn theo Ngài, tới Phêrô là người đã chối Ngài, và tới cả Mađalêna và Giuđa, cái nhìn ấy thật là một cái nhìn đầy ứ những ưa thích mến chuộng. Thật đó không phải là cái nhìn để luận phạt, nhưng là để thương mến, là để tha thứ.

Rước Lễ làm phát triển lòng quí chuộng cũng như tình yêu thương nhau; Rước Lễ trao cho chúng ta cái nhìn của Chúa Cứu Thế, và ban cho chúng ta những con mắt biết tìm gặp những gì là Thiện là Mỹ mà Thiên Chúa đã giấu ẩn trong tha nhân. Nhờ Tiệc Thánh Thể, Chúa Kitô đã dạy cho các môn đệ của Ngài biết nhìn xem nhau như Ngài đã nhìn xem họ. Thế là thái độ nhân từ của Ngài xâm chiếm tư tưởng cũng như tâm hồn những người rước lễ, đem họ xích lại gần nhau trong cùng một tâm trí.

Không có nhận xét nào: