Thứ Sáu, 27 tháng 6, 2008

Lễ Thánh Phêrô và Phaolô

gày 29 Tháng 6, Năm 2008

Lễ Thánh Phêrô và Phaolô

Củng cố Đức Tin và Truyền Giáo


Hôm nay chúng ta mừng lễ kính hai Thánh Phêrô và Phaolô Tông Đồ. Có thể nói là sau Chúa Giêsu thì Thánh Phêrô và Phaolô là hai vị Thánh được nhắc đến nhiều nhất trong Tân Ước. Tuy được nhắc đến rất nhiều, nhưng thật sự chúng ta biết rất ít về hai vị. Thánh Kinh không đi vào chi tiết về đời tư của hai tông đồ mà chỉ nói về liên hệ giữa hai vị cùng Chúa Giêsu và Hội Thánh. Thánh Kinh cũng nói nhiều về những việc các ngài làm và những lời các ngài giảng dạy trong chương trình cứu độ nhân loại của Thiên Chúa.

Như thế, về phương diện cá nhân, Thánh Phêrô cũng như Thánh Phaolô chẳng quan trọng gì, nhưng hai vị trở nên quan trọng vì Thiên Chúa đã dùng hai vị để xây dựng Hội Thánh theo ý định riêng của Ngài. Và hai vị đã để ngoan ngoãn để Thiên Chúa toàn quyền sử dụng.

Khi gọi Thánh Phêrô là Kêpha “Đá”, Chúa Giêsu muốn dùng thánh nhân làm nền tảng chống đỡ Hội Thánh. Khi trao cho ngài “Chìa Khóa”, Chúa muốn ngài tiếp tục sứ vụ của Người. Nền tảng này được lại xây trên chính lời tuyên xưng của Thánh Phêrô rằng Chúa Giêsu là “Đức Kitô, Con Thiên Chúa Hằng Sống.” Chìa khóa mà Chúa trao cho Thánh Phêrô không những chỉ có quyền tha tội, mà còn cả quyền mở cửa Nước Trời cho muôn dân. Hai quyền này Chúa cũng trao cho các tông đồ khác sau khi Người sống lại. Khi đặt Thánh Phêrô làm nền tảng để chống đỡ Hội Thánh, Chúa muốn ngài trở nên một biểu tượng của sự hợp nhất trong Hội Thánh và làm người củng cố đức tin của các môn đệ khác trong Hội Thánh (Lc 22:32).

Trước khi Chúa gọi Thánh Phaolô thì các tông đồ khác đã đi rao giảng Tin Mừng, phần lớn cho người Do Thái. Tuy nhiên Thánh Phêrô và Phó tế Phillipê cũng đôi khi rao giảng cho Dân Ngoại. Nhưng Chúa chọn riêng Thánh Phaolô làm “Tông Để Dân Ngoại” để đẩy mạnh công tác truyền giáo trên toàn đế quốc Rôma.

Vậy chúng ta có thể nói là Thánh Phêrô và Thánh Phaolô tượng trưng cho hai diện rất quan trọng của Hội Thánh là nuôi dưỡng đức tin của các tín hữu và rao giảng Tin Mừng cho dân ngoại. Nói cách khác là củng cố và phát triển Hội Thánh. Hội Thánh cần cả hai. Nếu chỉ lo củng cố thì Hội Thánh sẽ thành một pháo đài. Nếu chỉ lo phát triển mà không duy trì đức tin vững chắc thì chỉ là xây nhà trên cát. Khi đọc các thư Thánh Phaolô, chúng ta thấy ngài đi vào chi tiết của đời sống Kitô hữu trong hoàn cảnh của cộng đoàn mà ngài nhắm đến với tư cách là một mục tử trực tiếp. Khi đọc các thư Thánh Phêrô thì chúng ta thấy ngài đưa ra những nguyên tắc tổng quát cho đời sống của Kitô hữu và Hội Thánh, nhằm củng cố những gì các tông đồ khác, đặc biệt là Thánh Phaolô, đã dạy.

Mặc dù hai Thánh Tông Đồ có nhiều khác biệt về hoàn cảng gia đình, gốc tích, kiến thức, khả năng và tính tính, cũng như phương thức phục vụ Hội Thánh, nhưng các ngài có một điều rất giống nhau là không coi mình là quan trọng, mà chỉ biết làm hết mọi sự vì Đức Kitô. Hai vị chỉ biết một điều là nhắm mắt đi theo Đức Kitô. Thánh Phêrô đã có lần thưa với Chúa: “Lạy Chúa, [bỏ Chúa] chúng con sẽ theo ai? Chúa có những lời ban sự sống đời đời." (Ga 6:68). Còn Thánh Phaolô thì nói rằng: “Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Kitô sống trong tôi” (Gal ).

Cả hai vị là người đã hoàn toàn thay đổi sau khi gặp gỡ Đức Kitô, đã biến thành con người mới nhờ ơn Chúa Thánh Thần. Cả hai đã biết hoàn toàn lệ thuộc vào Đức Kitô, và từ bỏ tất cả để theo Người. Khi nghĩ đến hai vị và nhiệm vụ Chúa trao cho hai vị tôi mới giật mình tự nghĩ rằng chính bản thân tôi cũng là một Hội Thánh thu nhỏ. Tôi có biết quân bằng giữa việc củng cố đức tin của mình và rao giảng cho người khác không?

Phaolô Phạm Xuân Khôi

Thứ Tư, 25 tháng 6, 2008

TÌNH YÊU CỦA BẠN SÂU XA NHƯ THẾ NÀO?


TÌNH YÊU CỦA BẠN SÂU XA NHƯ THẾ NÀO?

Bạn có tin vào định mệnh không? ở nơi nào đó trong đại dương mênh mông của con người, đây lại chính thực là “nửa kia của tôi”. Cá nhân tôi thì cũng tin vào định mệnh, nhưng đồng thời tôi cũng tự hỏi: “Thật khó cho tôi như thế nào để tìm ra đúng người bạn đời của mình trong số hàng triệu triệu, hàng tỷ tỷ người trên thế giới, và làm sao tôi biết rằng người ấy lại chính là người đang đứng ngay trước mặt tôi?”

Mỗi người đều có nét đặc thù riêng của mình – hầu phân biệt người này với người khác, nhóm này với nhóm khác. Nó giúp xác định chúng ta là ai, và nhiều khi nó nói cho chúng ta là mình đang tìm kiếm điều gì hay đang tìm kiếm ai. Chúng ta bị một người hấp dẫn bởi lẽ nơi người ấy phản ánh những giá trị và niềm tin của chính chúng ta, và qua đó khai mở ra cho chúng ta một lối đường dẫn tới mối liện hệ giữa những con người với nhau.

Sống trong một thế giới đang đề cao qúa nhiều đến vật chất cũng như những yếu tố bên ngoài của sự vật, tính cách của một con người đang bị thách đố nghiêm trọng. Trong một bối cảnh như thế bạn có bao giờ suy xét xem những thanh nam thiếu nữ ngày nay đang ra sức chay theo điều gì không?

Tôi tình cờ chủ trì thực hiện một cuộc khảo cứu giữa những bạn bè và đây là những yếu tố hàng đầu thuộc về tính cách của con người được các bạn trẻ ái mộ. Bạn hãy kiểm tra xem bạn đã có được bao nhiêu phẩm chất này.

Tính trung thực

Hầu hết các bạn trẻ coi tính trung thực là điều quan trọng nhất mà người bạn đời lý tưởng của họ nên có, bởi lẽ một sự thật cơ bản là xã hội chúng ta ngày nay đang phải vật lộn với việc sự thật vắng bóng. Điều này được phản ánh ở con số qúa lớn các gia đình tan vỡ, các mối quan hệ bất trung, cũng như một môi trường sống hỗn độn mà chúng ta đang có trong thời gian hiện tại. Tôi tin rằng người trẻ khao khát sự trung thực bởi vì qúa nhiều người trong họ đang phải gánh chịu những hậu qủa của sự bất trung xẩy ra trong chính gia đình của họ.

Cam kết ăn đời sống kiếp với một người khác đòi hỏi rất nhiều sự tin tưởng, bởi lẽ yêu một người nào đó thì giống như là bạn liều lĩnh đưa cho người bạn đời của mình một lố dao găm và cho phép anh ấy/chị ấy có thể đâm mình bao nhiêu lần tùy theo họ muốn. Tình yêu không phải là một trò chơi. Với tình yêu người ta sẽ thật sự bị tổn thương. Đó là lý do tại sao sự tin tưởng được hình thành từ sự trung thực và cũng là sự sống còn của mối quan hệ.

Sự trung thực…bởi lẽ khi chúng ta cởi mở cho nhau về những cảm giác thực của mình, nỗi phẫn uất và những cảm giác tiêu cực sẽ không còn bóp nghẹt con tim của mình. (Jaim)

Tôi thích người đàn ông trung thực bởi vì tôi có thể bảo đảm cho mình rằng tôi có thể hoàn toàn tin tưởng anh ấy. (Rona)

Tôi tin rằng sự trung thực là cái điều làm cho mối quan hệ trở nên hữu hiệu. (Angelo)

Tôi tin rằng trong mối quan hệ, đôi bạn nên cởi mở cho nhau… nếu không họ sẽ không thể duy trì mối quan hệ của họ lâu dài. (Bruce)

Kính sợ Thiên Chúa

Bạn có thể chắc chắn rằng người đàn ông bạn yêu sẽ có mọi đặc điểm tốt lành khác nếu như anh ta biết kính sợ Thiên Chúa. (Krzl)

Kính sợ Thiên Chúa, tôi thật sự cảm kích đặc biệt với anh ấy vì anh ta đặt Thiên Chúa là trung tâm của đời sống mình. (Riza)

Tinh thần trách nhiệm

Có tinh thần trách nhiệm thì cũng xem như có mọi đặc điểm tốt mà một người có thể sở hữu. (Monica)

Anh ấy nên ý thức về những điều chính yếu của đời sống, và cũng nên khôn ngoan để cân đối các điều đó. Đời sống của anh ta không nên chỉ có một thứ nào đó để gắn bó, nhưng nên gắn bó đời mình với nhiều thứ khác nhau. (Emil)

Biết suy nghĩ và tính toán cho tương lai là đặc tính hết sức quan trọng mà bạn phải tìm kiếm nơi người bạn đời của mình, bởi vì đặc tính này sẽ giúp cả hai người có thể sống còn trong cuộc sống sau này. Một người biết những trách nhiệm của mình sẽ không bao giờ phải chết đói hay chết khát. Sống với một người có tinh thần trách nhiệm thì giống như luôn quấn quanh mình một tấm chăn bảo vệ bảo đảm ở bất cứ nơi nào bạn đi. Trong một kiểu suy nghĩ hết sức cụ thể và hiện thực, những người trẻ xem đặc điểm này là quan trọng để có thể thanh thản vì biết rằng tương lai của họ sẽ được bảo đảm.

Một qúa khứ gia đình tốt

Nếu anh ta có một gia đình tốt và tử tế thì coi như đã có một nền tảng khá vững chắc rồi. Cách thức anh ta đối xử và tương quan với các thành viên trong gia đình thì cũng chính là cách thức anh ta sẽ cư xử với mình trong tương lai. (Sarah)

Nếu một người được nuôi dưỡng lớn lên trong tình yêu thương và được chăm sóc một cách xứng hợp, anh ấy bảo đảm sẽ có được một nhân cách tốt. Thái độ cách chung của anh ta ảnh hưởng rất nhiều từ bối cảnh qúa khứ của mình. (Danessa)

Sự thông minh

Tôi thích có mối quan hệ với người trí thức. Tôi thích giữa chúng tôi có mối ràng buộc trí thức. (Paolo)

Có một sợi dây vô hình nối mọi người với nhau. Vấn đề ở chỗ làm sao để gỡ rối và tìm ra ai đúng là người đang giữ đầu kia của sợi dây.

Khung quy chiếu đây chỉ nhằm hướng dẫn để tìm ra “người ấy”, bởi vì trên thế giới này chúng ta không tìm tình yêu; nhưng chúng ta tìm nhau trước và rồi cho phép tình yêu khơi dậy trong lòng chúng ta.

Nhưng hãy luôn nhớ rằng, đừng vội vã! Tìm kiếm có thể là một công việc tẻ nhạt, nhưng như người ta nói: “Nếu bạn muốn bắt được một con bướm, đừng cố chạy theo nó, nhưng hãy ngồi xuống và mở bàn tay ra, nó sẽ đậu vào chính lòng bàn tay bạn.”

Bro. Joseph Nguyen Van Phuc, sdb. chuyển ngữ từ “How deep is your love” do tác giả Pia Suiza

Thứ Sáu, 20 tháng 6, 2008

ĐỨC BÊNÊĐÍCTÔ XVI: CON NGƯỜI VÀ CUỘC SỐNG




ĐỨC BÊNÊĐÍCTÔ XVI: CON NGƯỜI VÀ CUỘC SỐNG.


(Phỏng theo Marta Largo, “BENEDICT, AS SEEN UP CLOSE” trong Zenith News Agency, ngày 23/5/2008).

Một lòng yêu mến Chúa

Theo Đức Hồng Y José Saraiva Martins, Tổng Trưởng Bộ Phong Thánh, vị Hồng Y đã từng cộng tác rất gần gũi với Đức Bênêđíctô, thì nếu chúng ta muốn hiểu được nhân vật “Joseph Ratzinger” như một người thường và như một vị Giáo Hoàng, thì “chúng ta phải để ý đến lòng yêu mến Chúa của Ngài”.

Hôm Thứ Ba ngày 20/5/2008, trong khi tham dự cuộc ra mắt cuốn sách “BENEDICTUS” do Giuseppe de Carli viết, Đức Hồng Y Martins nói: Chìa khóa để hiểu được con người và sứ vụ của Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô XVI là chính Tình Yêu Chúa; điều đó dễ nhận thấy trong Tông Thư đầu tiên “Thiên Chúa là Tình Yêu” (Deus Caritas Est, God is Love) của Đức Giáo Hoàng. Tuy nhiên Đức Hồng y Martins cũng nói rõ thêm là “Tình Yêu” không phải là một “trạng thái tĩnh”, nhưng là một động lực, một sức mạnh triển nở không ngừng. Thật vậy, Tình Yêu luôn đem lại những nghị lực mới. Tình Yêu đặt ra những “Vấn đề” lớn, và từ đó nảy sinh ra Triết Học và Thần Học.

Vị Giáo Hoàng của quần chúng

Cũng theo Đức Hồng y Martins: “cuốn ‘Benedictus’ đã thu thập được những tài liệu nói lên sự hiện diện đang triển nở của Đức Giáo Hoàng trên sân khấu quốc tế của Thiên Niên Kỷ III. Cuốn sách cũng cho thấy làm thế nào, từng bước một, Đức Giáo Hoàng, một cách thận trọng, đang đi sâu vào tâm hồn của quần chúng. Rồi Đức Hồng y Martins nói thêm: “ Ngoài trình độ trí thức sáng ngời của Ngài, Đức Thánh Cha đang trở nên Vị Giáo Hoàng của quần chúng. Quần chúng càng ngày càng nhận ra được những lời nhắn nhủ của Ngài, ngay cả khi những lời đó khó chấp nhận, vì đòi hỏi phải dấn thân”.

Vị Hồng Y nói tiếp: “Đức Giáo Hoàng luôn hành động như một người Cha, một người Cha quyết tâm không để cho con cái của mình chìm vào trạng thái tầm thường. Cũng chính tình yêu của một người Cha đã thúc đẩy Ngài chiến đấu không ngừng để chống lại sự thống trị của Lý Thuyết Tương Đối hiện đang lan tràn trong xã hội của chúng ta.”

Đức Hồng y Martins còn quả quyết: “Vai trò của Đức Giáo Hoàng trên trường quốc tế không phải chỉ là một sự ‘có mặt’ mà thôi, nhưng là một ‘thực tại’. Ngay cả trước khi Ngài ngỏ lời, sự xuất hiện của Ngài đã là một sự ‘mời gọi’ mọi người hãy biết sống yêu thương và tìm kiếm chân lý. Tuy nhiên, sự ‘hiện diện’ của Ngài trong Giáo hội và trên thế giới không bao giờ là một sự ‘lấn chiếm’. Giọng nói của Ngài không mang một chút gì là ‘kiêu hãnh’, nhưng Ngài vừa thận trọng vừa khiêm tốn, vừa thân tình. Đó là cách mở rộng tâm hồn nhiều người để họ dể dàng đón nhận những lời mời gọi của Ngài”.

Tôn trọng truyền thống.

Riêng Đức Hồng Y Andrea Condero Lanza di Montezemolo, Tổng Quản Vương Cung Thánh Đường Thánh Phaolô Ngoại Thành, thì nói: « Nhớ lại, khi mới được bầu chọn lên Ngôi Giáo Hoàng được hai ngày, chính Đức Giáo Hoàng đã gọi điện thoại bảo tôi giúp Ngài phác họa bộ phẩm phục Giáo Triều làm sao cho đúng mẫu mực truyền thống (Đức Hồng Y Lanza rất thành thạo về các kiểu phẩm phục của Giáo triều). Ngay khi đó tôi nhận ra rằng Đức Giáo Hoàng có đức tính truyền thống; một con người có tinh thần đơn sơ, nhân bản, thành thực, giàu cảm hứng, nhưng cũng rất thận trọng. Đó là do tính quả quyết và chín chắn trong suy tư của Ngài.”

Còn Đức Tổng Giám Mục Angelo Amato, Tổng Thơ ký Thánh Bộ Tín Lý và Đức Tin, là một trong những người cộng tác thân cận nhất với Đức Giáo Hoàng khi Ngài còn là Hồng Y Tổng Trưởng Thánh Bộ này, đã phát biểu: « Đức Giáo Hoàng vẫn sống theo cung cách y như Ngài còn là Hồng Y. Điều mà quý vị thấy nơi Đức Giáo Hoàng bây giờ cũng y như quý vị thấy trước đây khi Ngài còn là Hồng Y Bộ Trưởng Thánh Bộ Tín Lý và Đức Tin: Cùng một con người trí thức, có đầu óc minh mẫn; cùng một tấm lòng nhiệt thành bảo vệ Tín Lý Đức Tin; cùng một con người đơn giản trong giao tiếp; và cũng vẫn là một con người thành thật và khiêm tốn.

Nụ cười truyền cảm.

Rồi Đức Tổng Giám Mục Amato vừa mở các trang sách của cuốn “Benedictus” vừa nói: “Người ta thấy nơi Đức Giáo Hoàng bốn đức tính trổi vượt: Tươi vui, nhanh trí, quảng tâm, và có nụ cười truyền cảm! Hơn nữa Ngài còn là con người thích đối thoại. Trí óc Ngài rất già dặn qua các năm tháng dài dạy tại các Đại Học, và cũng rất sắc bén qua nhiều cuộc tiếp xúc với các Đức Giám Mục khắp nơi trên thế giới về gặp gở Ngài ở Vatican khi Ngài còn là Bộ Trưởng Bộ Tín Lý. Đúng Ngài là một con người thích đối thoại với dáng vẻ không lạnh nhạt hay lơ là, nhưng luôn niềm nở, thân thiện. Ngài cũng là một nhà trí thức có tấm lòng.

Sức mạnh truyền đạt của Ngài xuất phát từ chỗ lới nói của Ngài luôn hợp tình, hợp lý; dù khi Ngài nói về Chúa Kitô, hay khi Ngài trình bày về các chân lý Đức Tin, cũng như khi Ngài phê phán những não trạng quá nệ cổ.

Vì Đức tin và Lý trí là đôi cánh đưa chúng ta bay tới Chân Lý, cho nên rõ ràng là Chân lý, Tình yêu Chân lý và sự đề cao Chân lý là những sợi chỉ đan kết đem lại một sự ‘liên tục’ nơi con người Ratzinger, trước đây là Bộ Trưởng Thánh Bộ Đức Tin và bây giờ là Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô!”.

Thứ Năm, 19 tháng 6, 2008

CHUA NHAT 12 - NAM A

Ngày 22 Tháng 6, Năm 2008

Biết sợ

I. TẤM BÁNH LỜI CHÚA: Mt. 10, 26-33

II. TẤM BÁNH CHIA SẺ

Có những người quá nhát sợ. Gặp con dán hay con chuột cũng co rúm người, mặt cắt không còn giọt máu. Có những người, trái lại, chẳng biết sợ là gì. Coi mạng sống nhẹ như tơ. Lên xe là phóng như bay. Liều lĩnh thường thiệt mạng. Nhút nhát quá đâm hỏng việc. Một đàng bất cập, một đàng thái quá. Vì thế vấn đề không phải là sợ hay không sợ. Vấn đề là phải biết phân định. Biết những gì nên sợ và những gì không nên sợ. Hôm nay Chúa Giêsu giúp ta phân định để biết sợ và không biết sợ.

Trước hết, Người dạy ta biết phân định giá trị. Sự sống là quí giá ta phải trân trọng. Mất sự sống là mất tất cả. Tuy nhiên sự sống có nhiều cấp độ. Có sự sống thân xác nhưng cũng có sự sống linh hồn. Có sự sống đời này nhưng không có sự sống đời sau. Sự sống đời này là chóng qua. Sự sống đời sau vĩnh cửu. Sự sống thân xác mau tàn. Sự sống linh hồn bất diệt. Ta phải yêu quí cả hai sự sống. Nhưng khi không thể giữ gìn vẹn toàn cả hai thì phải biết chọn sự sống cao quí, vĩnh cửu, đó là linh hồn, là sự sống đời sau.

Người cũng dạy ta phân định thời cơ. Thời cơ chỉ đến một lần. Lỡ thời sẽ không bao giờ tìm lại được nữa. Lỡ thời có thể hỏng cả cuộc đời. Có thời cơ để rao giảng Lời Chúa. Hiện nay, Lời Chúabị che giấu, chỉ thì thầm bên tai, còn nhiều người chưa biết. Ta được cơ hội đóng góp phần mình vào việc rao truyền Lời Chúa. Nhưng sẽ đến ngày mọi sự kín đáo sẽ tỏ lộ. Lời Chúa sẽ được mọi người nhận biết. Bấy giờ cơ hội sẽ hết. Có thời cơ tuyên xưng danh Chúa. Khi còn ở trần gian, giữa những người chưa biết Chúa, giữa những thế lực thù địch, trong cơn gian nan, chính là cơ hội cho ta tuyên xưng danh Chúa. Khi cuộc đời trần gian chấm dứt, cơ hội đó sẽ không còn.

Và sau cùng là phân định nguyên lý. Thiên Chúa là chủ mọi loài. Thiên Chúa nắm quyền sinh tử. Thiên Chúa an bài mọi sự. Con người chỉ là quản lý của Chúa trong một thời gian, trong một vài lĩnh vực. Khi thời gian chấm dứt, chính Thiên Chúa xét xử và thưởng công, trừng phạt.

Khi đã có những phân định rõ ràng ta sẽ biết sợ và biết không sợ.

Biết sợ Chúa là Chủ tể mọi loài, mọi sự. Không những làm chủ thân xác mà còn làm chủ cả linh hồn. Không những làm chủ đời này mà còn làm chủ cả cuộc đời sau.

Biết sợ mất linh hồn. Linh hồn là món quà cao quí nhất Thiên Chúa tặng cho con người. Sự sống của linh hồn là sự sống Thiên Chúa ban, hạnh phúc vĩnh cửu bên Chúa. Mất linh hồn là mất tất cả. Như Chúa Giêsu vẫn nhắc nhở: “Được lời lãi cả thế gian mà phải mất linh hồn thì nào được ích gì?”.

Biết sợ lỡ thời cơ. Hãy biết làm việc khi còn ban ngày, khi trời còn sáng, khi ta còn sống. Thời cơ chỉ đến một lần, nếu ta không tận dụng sẽ lỡ cả một đời. Như những cô trinh nữ khờ dại chỉ còn đứng ngoài cửa Thiên đàng mà than khóc. Như người đầy tớ lười biếng chôn giấu nén bạc phải khóc lóc nghiến răng.

Khi đã biết sợ như thế, ta sẽ không sợ người đời, vì người đời chỉ giết được thân xác mà không giết được linh hồn. Ta sẽ không sợ mất mạng sống, vì sự sống thân xác nay còn mai mất, chẳng tồn tại lâu dài. Ta sẽ không sợ hình khổ hạ thân xác, vì khổ hình rồi cũng sẽ qua.

Nói không sợ cũng không đúng hẳn. Đau đớn khổ cực ai mà không sợ. Nhưng như Chúa Giêsu trong vườn Cây Dầu, dù sợ vẫn cứ bước vào cuộc khổ nạn, Người môn đệ vẫn can đảm tuyên xưng danh Chúa, vẫn kiên trì rao giảng Lời Chúa, chấp nhận tất cả những khó khăn hiểm nguy đe doạ, rình rập, chấp nhận những đau đớn thua thiệt chóng qua đời này, với niềm tin vững chắc rằng chính Thiên Chúa là Cha nhân lành an bài mọi sự, Người sẽ ban thưởng cho ta phần thưởng không gì so sánh được, đó là hạnh phúc vĩnh cửu đời sau.

Lạy Chúa, xin hãy dùng con như khí cụ bình an của Chúa. Amen.

III. TẤM BÁNH HOÁ NHIỀU

1) Bạn đã từng bị những nỗi sợ nào đè nặng. Những nỗi sợ đó có chính đáng không?

2) Sống đạo là chấp nhận thiệt thòi. Bạn có dám chấp nhận thiệt thòi vì Chúa không?

3) Muốn trung thành với Chúa, bạn làm cách nào để tránh được những nỗi sợ do người đời đem đến?

ĐTGM. Ngô quang Kiệt

Thứ Sáu, 13 tháng 6, 2008

CHUA NHAT 11 TN - NAM A

Ngày 15 Tháng 6, Năm 2008

Các con đã lãnh nhận nhưng không,

thì hãy cho nhưng không.

Ở Đất Thánh có hai cái hồ nổi danh là Biển Hồ (Hồ Galilêa) và Biển Chết. Cả hai đều lãnh nhận nước từ sông Giođăng. Một hồ là hồ nước ngọt đầy mọi loại cá. Còn hồ kia là hồ nước rất mặn đến nỗi trong đó không có một sinh vật nào có thể sống được. Nếu cả hai cùng do nước sông Giođăng mà ra thì tại sao một hồ thì đầy nước ngọt và cá, còn hồ kia thì nước mặn thứ nhì thế giới và đầy sát khí như thế?

Lời nhắn nhủ cuối cùng của Chúa Giêsu trong bài Tin Mừng hôm nay “Các con đã lãnh nhận được nhưng không, thì hãy cho nhưng không” (Mat 10:8) chính là câu trả lời cho câu hỏi ở trên. Hồ Galilêa nhận được nước từ sông Giođăng và chuyển nước này đến những vùng lân cận để làm cho dân chúng có nước uống và đồng ruộng xanh tươi. Ngày nay hồ này vẫn còn là nguồn nước cho các vùng chung quanh. Vì nước cũ chảy ra và nước mới liên tục chảy vào nên hồ lúc nào cũng có nước đầy dưỡng khí để làm nơi sinh sống cho nhỉều loại cá. Còn Biển Chết thì không có nơi nào cho nước chảy đi, mà còn mỗi ngày tích trữ thêm khoáng chất từ những núi đồi chung quanh. Nước càng bốc hơi thì nồng độ khoáng chất càng tăng lên, hồ càng thêm mặn. Vì không cho đi mà chỉ biết nhận, và nhận bất cứ cái gì, nên thành Biển Chết.

Con người cũng vậy. Chúa ban cho chúng ta tất cả mọi sự một cách nhưng không. Tuy chúng ta là những kẻ vô đạo, đáng tội chết, nhưng Chúa Giêsu đã chết cho chúng ta để hoà giải chúng ta với Thiên Chúa và cho chúng ta được nên công chính trước mặt Ngài (x. Rom 5:6-11). Quả thực Thiên Chúa “đã mang chúng ta trên cánh đại bàng” và đưa chúng ta đến với Ngài (x. Xh 18:4). Đại bàng ấy chính là Đức Kitô, và đôi cánh kia là các ân sủng mà Chúa ban cho chúng ta cách nhưng không. Vì Thiên Chúa cho chúng ta mọi sự cách nhưng không, Ngài cũng muốn chúng ta cho lại tha nhân cách nhưng không. Càng cho đi chúng ta sẽ càng thêm phong phú. Nếu ích kỷ, giữ lại cho mình số phận chúng ta cũng sẽ chẳng khác gì Biển Chết.

Hôm nay Chúa sai các tông đồ ra đi rao giảng lần đầu tiên và dặn các ông phải làm việc hết mình, vì các ông đã nhận được cách nhưng không, thì các ông cũng phải cho đi cách nhưng không. Chúa cũng gọi và sai mỗi người Công Giáo ra đi như thế. Chúa muốn chúng ta phải mang sức lực, của cải, tài năng, và tất cả những hồng ân Ngài đã ban vào thế gian để chữa lành bệnh tật, hồi sinh kẻ chết và nhất là xua đuổi tà thần. Bệnh tật và sự chết ở đây là bệnh tật và sự chết phần hồn. Hiện nay tà thần đang mơn mởn khắp nơi mà ít người nhận ra chúng. Chúng chẳng cần cám dỗ ai cả vì đang có không biết bao nhiêu người tình nguyện phục vụ chúng. Không những chỉ những người trần thế, mà cả những người cứ tưởng rằng mình là con cái Thiên Chúa. Những người ấy cũng sẽ giống như Biển Chết vì không biết cho đi. Chỉ có những người biết cho đi cách nhưng không mới thật sự là môn đệ Chúa, bằng không thì đang làm tôi tà thần mà không biết. Ở đây tôi xin đan cử một vài thí dụ điển hình.

- Nếu tôi phục vụ để được danh vọng và tiếng khen là tôi phục vụ cho tà thần chứ không thật sự phục vụ Thiên Chúa và tha nhân. Như thế tôi cứ tưởng rằng mình cho đi cách nhưng không, nhưng thật ra tôi đang lấy lại tiếng khen, và hành động cho đi của tôi chỉ là phương tiện để tôi đạt được mục đích thầm kín ấy của tôi.

- Nếu tôi đóng góp thật nhiều cho nhà thờ để được đăng lời cám ơn trên báo, hay được khắc tên trên những viên gạch, trên những viên đá hay trên những quả vàng quả bạc trên “cây hằng sống” là tôi cũng đang phục vụ tà thần.

- Nếu tôi làm việc mà mong thấy kết quả là tôi cũng không phụng sự Chúa, mà phục vụ chính tôi. Như thế tôi cũng chẳng cho đi cách nhưng không.

- Nếu trong khi phục vụ tôi nghĩ rằng mình quan trọng, nếu không có mình thì “không ai biết làm gì hết” là tôi đang phục vụ tà thần chứ không phải phụng sự Thiên Chúa.

- Nếu tôi đi tu để được làm “Cha” người ta thì tôi cũng không thật sự phụng sự Thiên Chúa.

Còn rất nhiều, kể hoài cũng không bao giờ hết. Nhưng thế nào là mới thật sự là cho đi cách nhưng không?

- Cho đi cách nhưng không là làm tất cả vì vinh danh Chúa.

Bao lâu tôi làm việc để cho mình được vinh danh là tôi đã muốn dành cho tôi cái danh dự của Thiên Chúa vì Ngài là Đấng ban tất cả mọi sự cho tôi, chứ tôi có gì ngoài tội lỗi và yếu đối để đòi được vinh danh.

- Cho đi cách nhưng không là làm tất cả vì yêu mến Chúa.

Bao lâu tôi làm việc để thỏa mãn những ước vọng thầm kín của tôi là tôi làm việc vì yêu tôi chứ không phải vì yêu Chúa.

- Cho đi cách nhưng không là làm tất cả theo Thánh Ý Chúa.

Bao lâu tôi nghĩ rằng chỉ có cách làm việc của tôi là tốt nhất, là hay nhất, là tôi làm theo ý tôi chứ đâu phải làm theo ý Chúa.

Bao lâu tôi giảng dạy theo ý riêng tôi chứ không theo những giáo huấn của Hội Thánh là tôi cũng không làm theo Thánh Ý Chúa.

Bao lâu tôi không dám rao giảng những chân lý chói tai người đời vì sợ mất lòng họ là tôi làm việc theo ý người ta chứ không phải theo Thánh Ý Chúa.

Bao lâu tôi không chấp nhận những người chung quanh tôi và bằng lòng với hoàn cảnh của chính tôi là tôi đã không làm theo Thánh Ý Chúa.

Vì tôi đang cho đi để mong nhận lại một cái gì đó lớn lao hơn, nên khi tôi không nhận được điều tôi mong ước thì tôi đâm ra ghen tương, bất mãn. Ghen với người nhận được điều tôi muốn, bất mãn với những người có quyền thế mà không “dùng” tôi. Đó chính là lý do tại sao có những chia rẽ trong các cộng đoàn, trong các giáo xứ. Đó chính là lý do tại sao người ta nói hành, nói xấu, bôi lọ, và chỉ trích lẫn nhau.

Tôi chỉ có thể lớn lên trong ân sủng Chúa khi tôi biết thật sự cho đi cách nhưng không. Dù tôi không mong ước, nhưng càng cho đi thì Chúa lại càng ban lại cho tôi cách dồi dào hơn trước để tôi tiếp tục cho đi, như Biển Hồ Galilêa vẫn đầy nước mát và sinh lực mặc dù nó vẫn luôn cho đi tất cả những gì nó có từ mấy ngàn năm nay. Khi tôi biết làm như thế tôi sẽ thành phương tiện để Thiên Chúa chuyển sự sống của Ngài đến cho gia đình tôi và cộng đoàn tôi như Hồ Galilêa mang sức sống lại cho Đất Thánh.

Lạy Chúa xin dạy con và ban ơn cho con biết thật sự quên mình trong khi phục vụ. Con biết làm điều này rất khó vì bản tính loài người là kiêu ngạo. Xin Cho con biết nhìn lên Thánh Giá trong khi phục vụ để luôn nhớ rằng nếu Chúa không chết cho con thì con chỉ là một tên tử tội không đáng sống trên đời, và không có gì để tự hào, tự mãn. Amen.

Thứ Bảy, 7 tháng 6, 2008

Ngày 8 Tháng 6, Năm 2008

Ngày 8 Tháng 6, Năm 2008

Mầu nhiệm ơn gọi

I. TẤM BÁNH LỜI CHÚA: Mt. 9, 9-13

II. TẤM BÁNH CHIA SẺ

Suy nghĩ về các Tông đồ, ta không hiểu tại sao Chúa chọn Phêrô làm Giáo hoàng trong khi ông ít học, lại có nhiều khuyết điểm và nhất là đã phạm tội chối Chúa.

Cũng như hôm nay, việc Chúa gọi Matthêu khiến nhiều người ngỡ ngàng. Matthêu là người thu thuế. Thời ấy, đế quốc Rôma đô hộ nước Do thái. Người thu thuế bị coi là tiếp tay với đế quốc, và gian tham bóc lột người dân. Vì thế người thu thuế bị coi là người tội lỗi bị mọi người lên án, khai trừ. Thế mà Chúa gọi ông làm môn đệ Người. Chẳng ai có thể ngờ. Cả bản thân Matthêu có nằm mơ cũng chẳng dám nghĩ tới.

Ơn gọi quả thật là một mầu nhiệm. Đó là mầu nhiệm tình yêu. Chúa chọn một người không phải người đó xứng đáng. Chúa chọn con người vì lòng yêu thương của Người.

Tình yêu của Chúa là tình yêu quan tâm. Chúa quan tâm tới từng người, kể cả người tội lỗi. Qua các dụ ngôn “con chiên lạc”, “đồng bạc đánh mất”, ta thấy Chúa quan tâm tới cả những người bé nhỏ nghèo hèn, đi tìm một con chiên bé bỏng lạc mất, đốt đèn quét nhà vì một đồng tiền chẳng có bao nhiêu giá trị. Sự quan tâm khiến Chúa nhìn lên cây sung tìm kiếm ông Giakêu. Sự quan tâm khiến Chúa để mắt nhìn ông Matthêu, dù ông đang ngồi tại bàn thu thuế, nơi mà người Do thái không bao giờ thèm ghé mắt nhìn.

Tình yêu của Chúa là tình yêu tha thiết. Chúa biết rõ người ta yếu đuối hay sa ngã. Nhưng tình yêu Chúa mạnh hơn sự yếu đuối của con người. Ân sủng Chúa lớn lao hơn sự dữ của tội lỗi. Lòng thương xót Chúa lớn lao hơn trí tưởng tượng của con người. Nên Chúa có thể tha thứ tất cả. Cả những người bị đồng loại kết án vẫn nằm trong trái tim Thiên Chúa. Nên Chúa đã tha thứ cho Matthêu dù ông chưa bao giờ xin lỗi Chúa.

Tình yêu của Chúa là tình yêu tin tưởng. Vì yêu nên tin. Tin người yếu đuối có thể nên vững mạnh. Tin người lạc lối có thể trở lại đường ngay. Tin người lỡ lầm có thể làm lại cuộc đời. Vì tin nên mời gọi và trao nhiệm vụ. Tin tưởng mời gọi ta cộng tác vào công trình cứu độ. Tin tưởng trao vào tay ta cả kho tàng ơn thánh. Tin tưởng trao cho ta vận mệnh các linh hồn. Tôi là ai mà được Chúa tin tưởng đến thế?

Tình yêu của Chúa hướng về tương lai. Quên hết những lỗi lầm quá khứ. Không bao giờ nói đến quá khứ. Không bao giờ mất thời giờ trách móc những lỗi lầm đã qua. Tình yêu chúa mở cho ta một chân trời mới. Tình yêu Chúa đóng lại quá khứ, mở cửa tương lai. Tình yêu Chúa cho ta cơ hội mới để làm lại cuộc đời.

Tình yêu Chúa thật lớn lao nhưng cũng thật dịu dàng. Tình yêu Chúa trân trọng con người. Tình yêu Chúa đem lại tự do. Tình yêu Chúa đi những bước sáng tạo đầy bất ngờ. Ai đã cảm nhận được tình yêu của Chúa sẽ không thể chối từ lời Người mời gọi.

Matthêu đã cảm nhận được tình yêu đó qua ánh mắt nhân từ của Chúa. Ông đã cảm nhận được sự trân trọng qua lời nói dịu dàng của Chúa. Nên Ông đã lập tức đáp lại lời mời gọi của Chúa. Ông còn tổ chức tiệc mừng vì được theo chúa. Ông mừng vì dứt bỏ được quá khứ đen tối đè nặng tâm hồn. Ông mừng vì gặp được Đấng Cứu độ, đưa tâm hồn ông vào tình yêu, vào khung trời tự do. Ông mừng vì Chúa tin tưởng, trao vào tay ông cả một tương lai tươi đẹp với ơn gọi tông đồ, với trách nhiệm cứu nhân độ thế.

Hôm nay Chúa cũng đang quan tâm tới mỗi người. Chúa nhìn ta. Chúa tin tưởng ta. Chúa trao vào tay ta một tương lai mới. Chỉ cần ta đóng lại cánh cửa quá khứ và sống theo lời Người, ta sẽ bắt đầu đổi mới cuộc đời.

Lạy Chúa con tin Chúa yêu thương con. Xin cho con nhận biết tình yêu của Chúa. Amen.

III. TẤM BÁNH HOÁ NHIỀU

1) Có khi nào bạn nghĩ rằng những người tu trì là bất xứng?

2) Thái độ của Chúa đối với Matthêu dạy ta phải đối xử với tha nhân thế nào, nhất là những người ta coi là tội lỗi?

3) Chúa quên hết quá khứ và tin tưởng vào bạn? Tâm đắc điều này, bạn sẽ sống thế nào?

+ TGM Giuse Ngô Quang Kiệt