Thứ Bảy, 29 tháng 9, 2007

Thứ Năm, 27 tháng 9, 2007

PHUONG PHAP CAU NGUYEN VA DAY GIAO LY

PHƯƠNG PHÁP CẦU NGUYỆN 4 BƯỚC DÀNH CHO GIÁO LÝ VIÊN


Có thể nói: mỗi buổi dạy Giáo Lý là một buổi cầu nguyện với Lời Chúa. Để giúp các em học sinh Giáo Lý đón nhận được chân lý Lời Chúa và đáp trả lại bằng lời cầu nguyện hồn nhiên đơn sơ, chính bản thân Giáo Lý Viên cũng phải là những người chuyên chăm cầu nguyện, biết cách hướng dẫn cho các em cầu nguyện và cùng với các em cầu nguyện trong một bầu khí chân thành trang trọng.

Nên chăng, ngoài những buổi họp nhau soạn Giáo Án Giáo Lý, những buổi đến lớp dạy Giáo Lý, những buổi sinh hoạt gây tình đoàn kết thân ái và trao đổi kinh nghiệm giữa các Giáo Lý Viên với nhau, Ban Giáo Lý của Giáo Xứ cũng cần phải tổ chức cho các Giáo Lý Viên họp nhau cùng cầu nguyện ít là hàng tuần.

đây, chúng tôi xin giới thiệu một phương pháp cầu nguyện hết sức đơn giản nhưng lại rất dễ đạt hiệu quả chiều sâu tâm linh. Đó là Phương Pháp Cầu Nguyện 4 Bước của Dòng Chúa Cứu Thế, mà chúng tôi đã có dịp thử nghiệm và phổ biến tại Đại Chủng Viện Hà-nội và một số Giáo Xứ ở miền Nam lẫn miền Bắc trong Năm Thánh 2000.

I. DẪN NHẬP:

Cầu nguyện trước tiên là hiện diện trước Chúa và Cầu nguyện trước tiên là hiện diện trước Chúa và để Chúa ở với mình. Cầu nguyện là đối thoại với Chúa bằng môi miệng, trí óc, linh hồn, và bằng cả chân, cả tay, cả thân mình nữa. Đặc trưng của đối thoại là Nói và Nghe. Nếu chỉ nói không, thì mới là thuyết trình hay giảng day, nhưng chúng ta không có gì để dạy Chúa cả. Còn nếu chỉ nghe không, mà không nói lại bằng lời hay hành động, thì thật ra chưa nghe.

Như đôi trai gái lúc đầu mới làm quen, ai cũng muốn nói để chứng tỏ, để cho người kia hiểu về mình – mình là người tốt. Nhưng đến lúc đã thân nhau hơn, người ta bắt đầu có nhu cầu nghe nhau, để hiểu người bạn của mình, để thấu cảm với bạn mình. Còn khi đã yêu nhau mãnh liệt thì việc nói hay nghe không còn quan trọng bằng sự hiện diện, có mặt với nhau càng nhiều càng tốt.

Đó là khởi đầu của dấu hiệu muốn trở nên và có khả năng trở nên "một thịt với nhau". Cầu nguyện cũng là một cuộc tâm giao của hai người yêu nhau, nên cũng có tiến trình đi khá giống: nói – nghe – hiện diện.

II. TIẾN TRÌNH:

Phương Pháp Cầu Nguyện 4 Bước sẽ giúp bạn gặp gỡ Thiên Chúa, nhất là Chúa Giê-su như một người bạn, một người tình. Nếu bạn có lòng khát khao điều này, xin hãy dừng lại đôi phút mời Chúa Giê-su đến với bạn ngay lúc này.

"Lạy Chúa Giê-su, con mời Chúa đến với con trong giờ này và ngay bây giờ ! Xin Chúa chạm vào mắt con để con thấy Chúa trên các giòng chữ này. Xin Chúa chạm đến tay con, chạm đến tim con, để con như được ôm lấy Chúa. Xin Chúa chạm vào toàn thân con để toàn thân con có Chúa và xin cho con ca ngợi Chúa".

Bạn hãy hát cho Chúa nghe một bài hay chỉ một đoạn của một bài ca chúc tụng ngợi khen Thiên Chúa mà bạn thuộc.

Như vậy, từ giờ phút này, chúng tôi nhân Danh Chúa Giê-su Ki-tô và quyền năng Phục Sinh của Người là Chúa Thánh Thần chúc lành cho bạn. Xin Máu Thánh cứu độ của Người xua đuổi mọi âm mưu ma quỷ là các trạng thái lo lắng, hoài nghi, bực bội, căng thẳng, nóng bức hay ớn lạnh và nhất là mặc cảm tội lỗi đang hiện diện trong tâm trí, trong thân xác của bạn và trong căn phòng này ra khỏi bạn và nơi bạn đang có mặt.

Bạn hãy công bố: "Chỉ có Chúa và những gì thuộc về Ngài mới được hiện diện trong con người con và trong căn phòng này !

"Tên của 4 Bước giúp bạn thiết lập tương quan với Chúa gồm có: MIỆNG ĐỌC - TÂM SUY - KHẨN NGUYỆN - DẤN THÂN.

Bước 1: MIỆNG ĐỌC

Bạn sẽ đọc cái gì ? Xin bạn vui lòng luôn luôn có bên mình quyển Kinh Thánh Tân Ước nhỏ, để bất cứ lúc nào bạn muốn gặp gỡ Chúa Giê-su theo cách này, bạn sẽ không bị cản trở. Bạn hãy mở Kinh Thánh ra, chọn một đoạn ( có thể chỉ có một câu hoặc nhiều hơn cũng được ). Lưu ý, bạn có thể chọn các đoạn Kinh Thánh giúp cầu nguyện theo những cách sau:

Mở sách và chọn ngẫu nhiên: bất kỳ đoạn nào mở ra và gây chú ý cho mắt bạn trước nhất.

Mở sách và chọn theo các bản chỉ dẫn: hiện nay có rất nhiều bản chỉ dẫn ý cho mắt bạn trước nhất. bản chỉ dẫn đọc Kinh thánh theo hoàn cảnh. Nếu bạn đang hân hoan thì chọn đoạn nào và nếu đang cô đơn thì chọn đoạn nào.

Mở sách và chọn theo Lịch Phụng Vụ: trên Lịch Công giáo các địa phận đều có ghi ngày nào cần đọc đoạn nào.

Trước khi vào bước một, bạn nên mơi Chúa Giê-su đến với mình, tương tự như đã đề nghị ở phần trên. Kế đó bạn bắt đầu đọc sau một, hai phút thinh lặng. Cách đọc: Đọc bằng miệng, sao cho tai nghe được tiếng mình đọc. Nếu đọc một mình bạn, bạn lập lại một lần nữa như thể đang nuốt lấy từng chữ, từng lời Thánh Kinh.

Nếu đọc trong một Nhóm nhỏ ( 8 người trở xuống ), bạn nhờ một người thay mặt cộng đoàn công bố lại bản văn Lời Chúa một cách chậm rãi, trong khi đó những người kia nghe như thể đang nuốt lấy từng chữ, từng lời Thánh Kinh. Nếu Nhóm đông hơn 8 người, có thể nhờ 2 người lập lại.

Sau khi đọc xong, bạn thinh lặng khoảng một phút, rồi đọc lên một chữ, hay những chữ mà bạn còn nhớ và đã được đánh động. Bạn lập lại chậm rãi ba lần. Ví dụ: "Tôi biết chiên của tôi - Tôi biết chiên của tôi - Tôi biết chiên của tôi" ( x Ga 10, 14 ).

Sau khi xướng lên lời Thánh kinh này, bạn hãy cảm tạ Chúa đã đến với bạn, đang chạm đến bạn và đã ban cho bạn một Lời Sống.

Khi có nhiều người, thì người này xướng xong, mọi người lắng lại vài giây rồi người khác tiếp tục xướng lên. Lưu ý, trước khi xướng bản văn Thánh Kinh, bạn nên đọc xuất xứ, để mọi người dễ hiệp thông, ví dụ: "Câu 14".

Nếu bạn thấy Lời Thánh Kinh đánh động bạn đã được người khác xướng rồi bạn vẫn cứ xướng lại, vì điều đó cần cho cộng đoàn và cho chính bạn, bởi cũng một LỜI, nhưng Chúa sẽ nói những điều cụ thể khác nhau cho từng người và cho mỗi hoàn cảnh riêng biệt.

Bạn cần liên tục cảm tạ Chúa cho mình và cho những người đang cầu nguyện chung với bạn, vì Chúa thương chúng ta, Người đang viếng thăm chúng ta và ban cho chúng ta Sự Sống.

Bước 2: TÂM SUY

Bạn đừng vội đặt ra câu hỏi: "Những câu, những chữ Lời Chúa vừa đọc, vừa đánh động bạn có ý nghĩa gì ?" Nhưng hãy thật thư giãn và thả lỏng tâm trí, để Chúa có thêm cơ hội chạm vào cuộc đời bạn, nhất là chạm vào những khoảng trống tâm linh sâu thẩm.

Sau hai, ba phút thinh lặng như thế, bạn bắt đầu lập lại những câu, những chữ mà lúc nãy bạn đã được đánh động, một cách chậm rãi nhiều lần và chỉ cho một mình bạn nghe là đủ.

Kế đó, bạn hãy kéo câu, chữ Lời Chúa đó vào chính cuộc đời của bạn.

Ví dụ: "Tôi biết chiên của tôi... Chúa biết chiên của Chúa... Chúa biết con... Chúa biết con đang buồn... Chúa biết con đang bất lực trước một thử thách lơn lao... Chúa biết tim con đang xao động... Chúa biết lòng con đang hoài nghi... Chúa biết con... Chúa biết hoàn cảnh gia đình con... Chúa biết sự đổ vỡ sắp xảy ra trong nhà con... Chúa biết chiên của Chúa... "

Sau đó, bạn ước ao được bàn tay cứu độ của Chúa Giê-su chạm đến từng vấn đề đó của bạn.

Ví dụ: "Chúa biết con, vì con là chiên của Chúa... Chúa biết gia đình con, vì là gia đình con cũng thuộc về đàn chiên của Chúa... Xin bàn tay cứu độ của Chúa chạm đến tim con, chạm đến mạch máu của con... Xin bàn tay cứu độ của Chúa chạm đến và gìn giữ gia đình con..."

Bước 3: KHẨN NGUYỆN

Lúc này, bạn hãy mở miệng cầu nguyện lớn tiếng cho tai bạn nghe được giọng nói của mình.

Bạn hãy cầu nguyện với Chúa trong tâm tình phó thác tuyệt Bạn hãy cầu nguyện với Chúa trong tâm tình phó thác tuyệt đối, tức là ngoài Chúa ra không ai làm được việc đó, kể cả bạn. Tiền bạc, uy tín của địa vị hay tình cảm cũng không giải quyết được. Chỉ có một mình Chúa Giê-su mới có thể giải quyết được mà thôi.

Bạn đừng sợ hay ngại ngùng không biết nói gì khi cầu nguyện lớn tiếng, vì mọi lời nguyện đều hướng về Chúa, mà Chúa thì có vô số lời hay ý đẹp rồi, nên Người không cần phải nghe thêm một lời nào theo cách trau chuốt của chúng ta thường dùng để nói hoa mỹ với nhau, nhưng Người cần tấm lòng chân thật.

Nhất là, thánh Phao-lô đã dạy chúng ta: "Có Thần Khí giúp đỡ chúng ta là những kẻ yếu hèn, vì chúng ta không biết cầu nguyện thế nào cho phải; nhưng chính Thần Khí cầu thay nguyện giúp chúng ta bằng những tiếng rên siết khôn tả" ( Rm 8, 26 ).

Do đó, bạn hãy nói ngay với Chúa điều gì chợt đến lúc ấy với bạn, bất kể đó là điều gì, chỉ với một ý định rõ ràng là khẩn xin và ngợi khen Chúa.

Ở phần này, bạn cũng có thể sám hối một cách đặc biệt, xin được giải thoát khỏi những ràng buộc của sự dữ ẩn nấp trong cơ thể bạn dưới các hình thức bệnh tật, nghiện ngập, mệt mỏi, lo sợ, oán thù, hoài nghi... Rồi bạn hãy nói với Chúa quyết tâm tha thứ và làm hòa của bạn với Chúa và với những người nào đó cụ thể.

Bạn hãy xin Mẹ Ma-ri-a Hằng Cứu Giúp, thánh An-phong, Thánh Bổn Mạng và các Thánh khác mà bạn đặc biệt quý mến cầu nguyện cho bạn, để bạn có thể sẵn sàng để Chúa Giê-su tự do sử dụng bạn, ngõ hầu Người sẽ thực hiện điều bạn khẩn xin ngay nơi thân xác bạn và tha nhân.

Bước 4: DẤN THÂN

Nếu quyết tâm chỉ mới là một ước muốn thực hiện đến cùng một điều tốt nào đó ( lý trí và ý chí ), thì dấn thân sẽ bao gồm trọn vẹn quyết tâm và còn đòi phải có thêm ít là một hành vi, hành động cụ thể nào đó để thực hiện quyết tâm ấy. Ở đây, bạn sẽ dấn thân theo lời mời gọi mà trong suốt thời gian cầu nguyện vừa qua bạn đã được đánh động, thúc đẩy.

Khi nhận ra điều này, bạn hãy mau mắn thực hiện mà đừng lo sợ khả năng có phù hợp với quyết tâm hay không, vì lúc đó chính Chúa sẽ giúp bạn, sẽ làm thay cho bạn.

III. KẾT LUẬN:

Khi nào bạn chưa thực hiện xong phần Dấn Thân, nghĩa là giờ cầu nguyện của bạn chưa kết thúc; nghĩa là Chúa Giê-su vẫn đang hiện diện cách đặc biệt với bạn để nghe bạn tâm tình.

Như vậy, mặc dầu bạn chỉ dành ra 15 phút mỗi ngày và đều đặn như vậy, nhưng sẽ có những ngày bạn được gắn bó với Chúa liên tục cả ngày. Nếu bạn là người Ki-tô hữu thực thụ, chắc bạn cũng có một mong ước như người viết bài này là được Chúa Giê-su kết chặt cuộc đời Người với cuộc đời mình. Vậy đây là một lời đề nghị, một cách thức mà nhiều bạn trẻ đã đón nhận và đã gặp gỡ Đức Ki-tô muốn được chia sẻ với bạn.

Kinh nghiệm cụ thể cho thấy, nếu một Nhóm hoặc mỗi cá nhân trung thành thực hiện theo Phương Pháp này trong khoảng 49 ngày, thì đến ngày thứ 50, Nhóm hoặc cá nhân có thể nhận được ân huệ Chúa ban một cách diệu kỳ.

IV. TÓM LƯỢC:

Cuối cùng, để giúp người hướng dẫn ( còn gọi là Linh Hoạt Viên Cầu Nguyện ) cho một Nhóm nhỏ khoảng từ 10 tới 30 người, xin tóm lược tất cả Phương Pháp Cầu Nguyện 4 Bước theo một trình tự như sau:

Bước 1: MIỆNG ĐỌC

  • Tập họp chung tại một nơi thích hợp.
  • Chân thành mời Chúa đến với Nhóm.
  • Hát chung một bài Thánh Ca ngắn.
  • Thinh lặng ít phút.
  • Cùng mở Tân Ước, đọc chung đoạn Lời Chúa đã chọn.
  • Nhờ thêm 2 người nữa lần lượt đọc lại đoạn Lời Chúa.
  • Thinh lặng ít phút.
  • Mời tất cả ai được đánh động bởi câu, chữ nào trong đoạn Lời Chúa vừa đọc, xướng lên chậm rãi 3 lần kèm theo xuất xứ.

Bước 2: TÂM SUY

  • Người hướng dẫn nói với Chúa thay cho cả Nhóm.
  • Mỗi người cũng thầm nói với Chúa niềm ước ao được chính Lời Chúa vừa xướng lên, chạm đến từng vấn đề riêng của mình, chạm đến cuộc đời mình.

Bước 3: KHẨN NGUYỆN

  • Người hướng dẫn khẩn nguyện lớn tiếng thay cho cả Nhóm. Mọi người hiệp ý, hoặc có thể thầm khẩn nguyện trong lòng cho một vấn đề riêng của bản thân.
  • Sau đó, lần lượt mỗi người cũng có thể khẩn nguyện lớn tiếng trước cả Nhóm, nếu thấy bản thân cần được cả Nhóm cầu nguyện giúp cho mình.
  • Có thể nài xin với Đức Ma-ri-a, Thánh Bổn Mạng của mỗi người, Thánh Bảo Trợ của Nhóm mình cầu bầu cùng Chúa.

Bước 4: DẤN THÂN

  • Người hướng dẫn thưa với Chúa một quyết tâm chung của Nhóm, hướng tới một việc dấn thân cụ thể: hoán cải một lỗi lầm, hòa giải một chuyện bất hòa, sống bác ái...
  • Mỗi người cũng thầm hứa với Chúa sẽ quyết tâm và dấn thân làm một việc cụ thể nào đó mà mình được Chúa soi dẫn.
  • Nếu có mặt một Linh Mục, mời ngài thánh hóa và chúc lành.
  • Hát chung một bài Thánh Ca, làm dấu Thánh Giá kết thúc.

Trích từ Nổi Lửa Cho Đời 3 của Cha Giuse Lê Quang Uy

Trung Tâm Mục Vụ Dòng Chúa Cứu Thế Việt Nam

CẦU NGUYỆN TRONG GIÁO LÝ


I. MỤC ĐÍCH:

Như đã trình bày từ các bài trước, mục đích cuối cùng của việc dạy Giáo Lý là giúp các em gặp gỡ và kết hợp với Chúa. Do đó, cầu nguyện có một vai trò hết sức quan trọng trong một buổi Giáo Lý. Có thể nói, cả buổi Giáo Lý phải là một cuộc gặp gỡ Chúa. Chính những phần cầu nguyện ở đầu, ở giữa và ở cuối buổi Giáo Lý giúp các em đi vào cuộc hạnh ngộ tuyệt vời này. Tuy nhiên, mỗi phần cầu nguyện đều có ý hướng và nội dung khác nhau, thích ứng với trình tự của một buổi học Giáo Lý.

II. NỘI DUNG:

Trước khi đi vào ý hướng và nội dung từng phần, thiết tưởng cũng nên nhắc lại những điều kiện thiết yếu cho việc cầu nguyện. Đó là:

1. Khát vọng gặp Chúa:

Chính Giáo Lý Viên là người trước hết khao khát gặp gỡ Chúa, xin Chúa soi dẫn để mình biết trình bày sứ điệp của Chúa đến cho các em. Kế đó, Giáo Lý Viên truyền lan nỗi khao khát được gặp Chúa sang cho tất cả các em, để về phía các em, các em cũng khao khát xin Chúa mở trí mở lòng để đón nhận nội dung Giáo Lý mà các em sắp học, đang học và vừa học xong.

Điều này thể hiện cả ở việc làm dấu Thánh Giá, ở tư thế lúc cầu nguyện. Hãy thường xuyên nhắc cho các em hiểu ý nghĩa của việc làm dấu, của cử chỉ cúi mình bái lạy. Không nên làm dấu quều quào như... đuổi ruồi, chưa làm dấu kết thúc đã vội làm ngay, nói ngay sang chuyện khác. Giáo Lý Viên phải giúp các em cầu nguyện với cả con người, nghĩa là với tất cả trí nhớ, trí tưởng tượng, tâm hồn và thể xác. Nên dùng những lời và những cử chỉ đơn sơ mộc mạc chân thành.

2. Thời gian gặp Chúa:

Những giây phút cầu nguyện ngay trong buổi học Giáo Lý phải là khoảng thời gian dành trọn cho Chúa, Những giây phút cầu nguyện ngay trong buổi học Giáo Lý phải là khoảng thời gian dành trọn cho Chúa, được Giáo Lý Viên chuẩn bị chu đáo, diễn ra một cách trang trọng, chứ không làm cho có, làm theo thói quen. Cầu nguyện đừng quá ngắn ngủn cộc lốc, gây cảm tưởng là sợ phí giờ. Cũng đừng quá lê thê, tạo ra tâm lý ngán ngẩm hoặc ngột ngạt. Điều này sẽ âm thầm huấn luyện rất hiệu quả cho các em biết cần phải thường xuyên cầu nguyện với Chúa không chỉ trong lớp mà vào mọi nơi mọi lúc trong ngày sống của các em, đặc biệt là trước khi đi ngủ và vừa khi thức dậy, khi vừa lãnh nhận một Bí Tích và trước khi ăn cơm.

Cũng cần nhớ rằng: cầu nguyện không phải là đọc kinh liên tục kéo dài, hết kinh này đến kinh khác một cách máy móc. Mỗi kinh nếu được sử dụng đều là những lời cầu nguyện đã được Giáo Hội cô đọng sâu xa ( Kinh Lạy Cha, Kinh Tin Kính, Kinh Kính Mừng, Kinh Tin-Cậy-Mến, Kinh cầu Chúa Thánh Thần, Kinh Cúi Xin Chúa sáng soi... )

3. Lắng nghe tiếng Chúa:

Tâm lý chung của đám đông là sợ sự thinh lặng. Hễ cứ thấy im lặng hơi lâu một chút là sốt ruột, thấy cần phải hát, phải làm một cái gì đó ngay.

Đã muốn lắng nghe được tiếng Chúa thì thầm trong tâm hồn hay được cất lên khi công bố Lời Chúa, rõ ràng là cần phải biết thinh lặng. Trong giây phút cầu nguyện, Giáo Lý Viên phải dành những khoảnh khắc thinh lặng hoàn toàn, không nên nói liên tục đến mức lải nhải dông dài, cầu xin kể lể đủ thứ chuyện mà không có trọng tâm ý chính.

Cần nhớ là một lời cầu nguyện thường có ý cảm tạ, ngợi khen, xin lỗi hoặc xin ơn tùy nội dung bài Giáo Lý gợi ra.

Cũng nên tập cho các em khi dâng lời nguyện tự phát thì cần nói chậm, to, dõng dạc, rõ ý để cộng đoàn mới có thể hiệp thông với ý nguyện được. Khi kết thúc một lời nguyện, nên thinh lặng một chút rồi thêm câu: "Xin Chúa nhậm lời chúng con..."

Sau những lời nguyện tự phát của các em, Giáo Lý Viên nên đợi tất cả lắng lại một lúc rồi mới dâng lời tổng nguyện kết thúc. Sau đó có thể hát một bài thánh ca phù hợp với nội dung vừa cầu nguyện.

III. CÁC PHẦN CẦU NGUYỆN:

1. Cầu nguyện đầu giờ:

Phút cầu nguyện đầu giờ có mục đích giúp các em đi vào cuộc gặp gỡ với Chúa trong buổi Giáo Lý, bằng cách đặt các em trước sự hiện diện của Chúa. "Ở đâu có hai ba người họp lại nhân danh Thầy, thì có Thầy ở đấy, giữa họ" ( Mt 18, 20 ).

Hãy giúp các em nhớ lại Lời Chúa mời gọi: "Cứ để trẻ em đến với Thầy..." ( Mc 10, 14 ). Hãy để các em nhận ra một buổi học Giáo Lý chính là thời gian đến với Chúa để học cùng Chúa: "Hãy học với Thầy, vì Thầy có lòng hiền hậu và khiêm nhường..." ( Mt 11, 29 )

2. Cầu nguyện giữa giờ:

Phút cầu nguyện giữa giờ chính là đỉnh cao của buổi học Giáo Lý, vì sau khi nghe công bố và giải thích Lời Chúa, sau khi đã tiếp nhận lời mời gọi của Chúa với cả tâm tình, các em hẳn có nhiều điều muốn nói với Chúa, muốn đi vào cuộc đối thoại trang nghiêm mà thân tình với Chúa.

Như thế, cuộc gặp gỡ giữa các em với Chúa đã được chuẩn bị qua việc công bố và giải thích Lời Chúa, và sẽ được tiếp nối trong phần sinh hoạt tiếp theo sau đó. Nội dung của phút cầu nguyện này là ý chính và tâm tình của bài Giáo Lý.

3. Cầu nguyện cuối giờ:

Phút cầu nguyện cuối giờ sẽ giúp các em trình bày với Chúa quyết tâm sống những gì đã học. Nếu như phút cầu nguyện đầu giờ giúp các em từ cuộc sống bước vào cuộc gặp gỡ với Chúa, thì phút cầu nguyện cuối giờ hướng các em đến một cuộc gặp gỡ khác với Chúa ngay trong đời thường. Nhờ đó, toàn bộ cuộc sống các em sẽ là lời cầu nguyện liên lỉ.

IV. KẾT LUẬN:

Cầu nguyện trong Giáo Lý giúp các em nội tâm hóa những giáo huấn của Lời Chúa, chuyển sứ điệp thành hành động cụ thể. Như thế, cầu nguyện gắn Giáo Lý với Phụng Vụ và cuộc sống.

Hãy cẩn thận, đừng để rơi vào một cung cách cầu nguyện mà Đức Giê-su đã nhắc nhở: "Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: "Lạy Chúa, Lạy Chúa !" là được vào Nước Trời cả đâu ! Nhưng chỉ những ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên Trời, mới được vào mà thôi..." ( Mt 7, 21 )

PHƯƠNG PHÁP TRÌNH BÀY GIÁO LÝ


I. DẪN NHẬP:

Nếu như trong giáo dục, các mặt trí dục, đức dục và thể dục đòi hỏi phải có phương pháp chuyển tải thì ngành Sư Phạm Giáo Lý cũng cần phải có phương pháp. Phương pháp chính là con đường ngắn nhất đưa cả người dạy lẫn người học đạt đến mục tiêu nhắm tới.

Có hai phương pháp chính và một số phương cách hỗ trợ để Giáo Lý Viên có thể vận dụng trong việc trình bày một nội dung Giáo Lý.

Thật ra, mỗi phương pháp đều có mặt mạnh mặt yếu của nó, không hoàn toàn tuyệt đối hay cho mọi trường hợp. Do vậy, tùy từng vấn đề phải chuyển tải, tùy từng hoàn cảnh và môi trường giảng dạy, và tùy từng đối tượng tham dự lớp, mà Giáo Lý Viên uyển chuyển chọn lựa phương pháp này hay phương pháp kia, đôi khi khéo léo phối hợp cả 2 phương pháp trong cùng tiến trình truyền đạt một nội dung Giáo Lý, cốt là đạt được hiệu quả cao nhất.

II. HAI PHƯƠNG PHÁP CHÍNH:

1. Phương pháp diễn giải ( Méthode déductive ):

Người trình bày đi từ một định luật, một định đề lớn và tổng quát, dần dần suy luận, diễn tả, chứng minh và giải thích, mổ xẻ thành những vấn đề nhỏ, những trường hợp riêng biệt để từ đó tổng hợp từng bước để người học có thể nắm được nội dung chính.

Ví dụ: Học về Hội Thánh trong chương trình Vào Đời. Định nghĩa Hội Thánh là gì ? Hội diễn tả một cuộc nhóm họp thành cộng đoàn với một mục đích, một công việc chung. Thánh nghĩa là thuộc về Thiên Chúa. Vậy, Hội Thánh là cộng đoàn những người được Lời Thiên Chúa quy tụ thành Dân Chúa và thành Thân Mình Của Đức Giê-su Ki-tô... ( Kế đó, lại phải trình bày về Lời Chúa, được quy tụ bởi Lời Thiên Chúa là thế nào ? Tại sao lại nói Hội Thánh là Nhiệm Thể, là Thân Mình của Đức Ki-tô ?... )

Phương pháp này buộc người dạy phải vận dụng những suy luận và định nghĩa vững chắc và mạch lạc, có phần nào hơi áp đặt các em phải chấp nhận ngay từ đầu một mệnh đề, một định luật, đòi hỏi phải đầu tư suy nghĩ nhiều.

Hơn nữa, phương pháp giảng dạy này dùng đường lối thuyết trình ( didactique ), nghĩa là độc thoại một chiều từ phía người nói đến người nghe, sử dùng khá nhiều từ ngữ Thần Học cao siêu và Mầu Nhiệm khó hiểu, gây ra bầu khí động não căng thẳng, nặng nề, khô khan, thiếu sự trao đổi và cảm nhận sống động nơi các em.

Nếu đành phải áp dụng phương pháp này trong giảng dạy thì phải huy động thêm nhiều phương cách hỗ trợ để minh họa dẫn dắt các em từ những cái khó hiểu đi dần tới những cái dễ hiểu.

Một hình thức biến thể và đơn giản hóa của phương pháp diễn giải là các sách Giáo Lý Hỏi – Thưa dành cho trẻ em, mà hiện nay một số Giáo Phận, đặc biệt ở miền Bắc vẫn đang còn áp dụng.

2. Phương pháp quy nạp ( Méthode inductive ):

Người dạy khởi đi với các kinh nghiệm của bản thân, hoặc những dẫn chứng thực tế, những câu chuyện trong đời sống thường nhật mà người học có thể từng trải và cảm nhận một cách tự nhiên. Từ đó tiến dần đến một kết luận có tính khái quát về nội dung vấn đề muốn truyền đạt.

Ví dụ: Học về việc “Thiên Chúa ban trí khôn loài người” trong chương trình Giáo Lý Khai Tâm. Kể truyện em bé Hi-cô-i-chi trong truyện Tảng Đá Chắn Đường ( xin xem Tuyển Tập Nối Lửa Cho Đời số 2 ). Bắt đầu từ đời sống nhân bản: Em có trí khôn nên em sống khôn ngoan và làm vui lòng mọi người. Dẫn vào nội dung Giáo Lý: Em được Thiên Chúa ban cho trí khôn để có thể nhận biết Chúa, sống yêu thương như ý Chúa muốn. Đẩy tới tâm tình tôn giáo: Mỗi tối, trước khi đi ngủ, em thưa với Chúa: “Xin cho con biết điều gì đẹp lòng Chúa để con làm, và điều gì làm buồn lòng Chúa để con tránh”...

Phương pháp này rất phù hợp với trẻ em, vì các em thường suy nghĩ bằng sự kiện và hình ảnh hơn là bằng ý niệm và lý luận trừu tượng. Hơn nữa, phương pháp này dùng đường lối đối thoại ( méthode dialogique ), nghĩa là có tương quan hai chiều giữa người hướng dẫn và người khám phá. Thầy gợi ý để trò suy nghĩ và từng bước tiến gần đến chân lý. Các câu hỏi vừa tầm, mở đường cho lời đáp, tiệm tiến, xoáy dần vào vấn đề chính.

Chúng ta nhận thấy Đức Giê-su đã dùng phương pháp quy nạp một cách xuất chúng khi luôn mở đầu một bài giảng bằng một dụ ngôn hoặc bằng một hình ảnh, một sự kiện bình thường trong cuộc sống con người.

III. CÁC PHƯƠNG CÁCH HỖ TRỢ:

Để việc áp dụng các phương pháp vừa nói ở trên đạt được hiệu quả cao nhất, xin đề nghị 2 phương cách hỗ trợ.

Cần lưu ý là cả 2 phương cách này đều dựa trên nguyên tắc năng động ( dynamique ), đòi hỏi người Giáo Lý Viên như một Linh Hoạt Viên trong lớp Giáo Lý, biết cách huy động các em trong một bầu khí vui tươi sống động, biết cộng tác với nhau trong việc khám phá từng bước và toàn bộ nội dung Giáo Lý thông qua các Trò Chơi, Bài Hát, Truyện Kể và những sinh hoạt tập thể như: Kịch Chạy, Pa-Nô Chạy, Báo Chạy... ( Xin xem thêm tuyển tập Nối Lửa Cho Đời số 1 )

Như thế, các phương cách hỗ trợ này tạo ra các tương quan đa chiều, không những giữa Giáo Lý Viên và các em, mà còn giữa các em với nhau trong sự hướng dẫn của Giáo Lý Viên. Khái niệm dạy – học trong một bầu khí sống động như vậy, sẽ trở nên tương đối, mà đúng hơn, phải thay bằng khái niệm cùng nhau khám phá.

Không gian lớp học thường được sắp xếp rất linh động uyển chuyể. Bàn ghế có thể bố trí theo hình vuông, hình chữ nhật hoặc chữ U. Cũng có thể bỏ hết bàn ghế để thầy và trò ngồi xuống đất theo hình tròn. Đương nhiên, số lượng các em không nên quá đông ( vượt quá 30 trẻ ) để việc hội thoại, sinh hoạt và hoạt động không bị loãng hoặc hỗn độn, cả lớp đều dễ dàng tham gia mà ít có em nào thụ động khép kín.

Ở đây xin tạm phác họa một xã hội đồ ( sociogramme ), các mũi tên đan xen qua lại sẽ diễn tả những mối tương quan đa chiều trong lớp xoay quanh nội dung Giáo Lý được đem ra hội thoại, giữa Giáo Lý Viên ( ô tròn tô đậm ) và các em ( các ô để trắng ):

1. Phương cách trực quan ( intuitive ):

Trực quan nghĩa là các em có thể trực tiếp vận dụng một hoặc nhiều giác quan ( mắt nhìn, tai nghe, tay chạm, mũi ngửi, lưỡi nếm ), để từng chút một, thông qua các sự việc, sự vật và khái niệm trung gian mà đến gần hơn với nội dung Giáo Lý.

Phương cách này đặc biệt thu hút các em học sinh Giáo Lý, nhưng cũng dễ gây ấn tượng nếu khéo áp dụng cho cả các dự tòng người lớn.

Ở đây, chúng tôi xin đơn cử hai mặt trực quan sinh động dễ được vận dụng nhiều nhất:

  • Mắt nhìn ( thị giác ), Giáo Lý Viên có thể vận dụng các tranh ảnh, pa-nô cắt dán minh họa một phần của nội dung Giáo Lý, một tấm bản đồ Đất Thánh, một bản phân nhánh hình thành các Giáo Phận ở Việt Nam, một bản gia phả Chúa Giê-su, một bình hoa thật đẹp, sách Kinh Thánh... hoặc một mẫu vật thật như: hòn đá núi, ngọn đèn có giá, con chim sẻ trong lồng, đồng bạc cổ, chùm nho, bó lúa, đóa hoa dại, nhánh cỏ lùng... gợi liên tưởng đến các câu Lời Chúa trong Tân Ước... Cũng có thể cho các em chơi trò chơi lắp ghép tranh hình ô vuông theo một tranh Kinh Thánh mẫu, làm Báo Chạy, Pa-nô Chạy...
  • Tai nghe ( thính giác ), Giáo Lý Viên có thể mở cho lớp nghe một bài Thánh Ca, một câu truyện kể với nhạc nền được thâu sẵn trong băng cassette có nội dung dẫn vào hoặc củng cố bài Giáo Lý. Ngoài ra, phải kể cả các loại hình minh họa Sư Phạm Giáo Lý như kể truyện, đọc truyện, tập hát cũng giúp vào việc nghe hết sức hiệu quả. Cũng có thể cho lớp chơi các trò chơi Kim về thính giác để nhận định những tiếng động khác nhau của các mẫu vật, những âm giọng riêng của từng người... từ đó dẫn nhập vào bài dạy.

2. Phương cách hoạt động ( active ):

Ở phương cách này, Giáo Lý Viên vận dụng tối đa các phương pháp năng động như Lập Phiếu, Nhóm Ong, Động để tổ chức các dạng sinh hoạt tại lớp như: hoạt cảnh, diễn kịch ngắn, Báo Chạy, Pa-nô Chạy, triển lãm mi-ni...

Giáo Lý Viên các khối cũng có thể phối hợp tổ chức cho nhiều khối học sinh Giáo Lý sinh hoạt các trò chơi trong Hội Trường hoặc tại sân Giáo Xứ, hoặc thỉnh thoảng tổ chức Trò Chơi Lớn, Chiến Dịch Giáo Lý ( x. thêm tuyển tập Nối Lửa Cho Đời số 1 ).

Cuối học kỳ hoặc cuối năm, có thể tổ chức cho các em một chuyến đi hành hương, phục vụ từ thiện, xuất du, những buổi xem phim Kinh Thánh, phim Giáo Dục... Sau mỗi buổi hoặc mỗi chuyến đi như thế, cả lớp sẽ họp mặt với nhau để lượng giá, trao đổi, chia sẻ và được Giáo Lý Viên hỗ trợ, sẽ cùng nhau rút ra một chân lý Tin Mừng cần lãnh hội.

Được như vậy, nội dung Giáo Lý sẽ khắc họa sâu xa trong tâm hồn, và được biến thành “sự sống” cụ thể nơi mỗi em.

Học đi đôi với hành, kiến thức hòa nhập với cảm nhận, các em sẽ thật sự gặp gỡ Đức Ki-tô, đến gần với Thiên Chúa hơn, đồng thời lại nhận ra rất rõ chiều kích tha nhân và sự hiệp thông trong Giáo Hội qua những bạn học cùng lớp cũng như qua tha nhân mà các em tiếp xúc, đặc biệt là “người nghèo”.

IV. KẾT LUẬN:

Xin nhắc lại, mục tiêu ở đây chính là giúp học viên gặp gỡ Đức Ki-tô, hiểu biết, yêu mến và sống theo Lời của Người. Do vậy, các phương pháp nêu trên chỉ mang ý nghĩa chuyển tải và hỗ trợ, đừng quá lệ thuộc.

Cũng xin nhớ là không có phương pháp nào là chuẩn mực và lý tưởng cho mọi Giáo Lý Viên, mọi độ tuổi các em và trong mọi lúc, mọi trường hợp, do vậy, dùng phương pháp nào đi nữa thì cũng không miễn chước cho mỗi Giáo Lý Viên khỏi việc tự mình khao khát tìm hiểu, cầu nguyện và sống Lời Chúa.

PHƯƠNG PHÁP TRÌNH BÀY GIÁO LÝ


I. DẪN NHẬP:

Nếu như trong giáo dục, các mặt trí dục, đức dục và thể dục đòi hỏi phải có phương pháp chuyển tải thì ngành Sư Phạm Giáo Lý cũng cần phải có phương pháp. Phương pháp chính là con đường ngắn nhất đưa cả người dạy lẫn người học đạt đến mục tiêu nhắm tới.

Có hai phương pháp chính và một số phương cách hỗ trợ để Giáo Lý Viên có thể vận dụng trong việc trình bày một nội dung Giáo Lý.

Thật ra, mỗi phương pháp đều có mặt mạnh mặt yếu của nó, không hoàn toàn tuyệt đối hay cho mọi trường hợp. Do vậy, tùy từng vấn đề phải chuyển tải, tùy từng hoàn cảnh và môi trường giảng dạy, và tùy từng đối tượng tham dự lớp, mà Giáo Lý Viên uyển chuyển chọn lựa phương pháp này hay phương pháp kia, đôi khi khéo léo phối hợp cả 2 phương pháp trong cùng tiến trình truyền đạt một nội dung Giáo Lý, cốt là đạt được hiệu quả cao nhất.

II. HAI PHƯƠNG PHÁP CHÍNH:

1. Phương pháp diễn giải ( Méthode déductive ):

Người trình bày đi từ một định luật, một định đề lớn và tổng quát, dần dần suy luận, diễn tả, chứng minh và giải thích, mổ xẻ thành những vấn đề nhỏ, những trường hợp riêng biệt để từ đó tổng hợp từng bước để người học có thể nắm được nội dung chính.

Ví dụ: Học về Hội Thánh trong chương trình Vào Đời. Định nghĩa Hội Thánh là gì ? Hội diễn tả một cuộc nhóm họp thành cộng đoàn với một mục đích, một công việc chung. Thánh nghĩa là thuộc về Thiên Chúa. Vậy, Hội Thánh là cộng đoàn những người được Lời Thiên Chúa quy tụ thành Dân Chúa và thành Thân Mình Của Đức Giê-su Ki-tô... ( Kế đó, lại phải trình bày về Lời Chúa, được quy tụ bởi Lời Thiên Chúa là thế nào ? Tại sao lại nói Hội Thánh là Nhiệm Thể, là Thân Mình của Đức Ki-tô ?... )

Phương pháp này buộc người dạy phải vận dụng những suy luận và định nghĩa vững chắc và mạch lạc, có phần nào hơi áp đặt các em phải chấp nhận ngay từ đầu một mệnh đề, một định luật, đòi hỏi phải đầu tư suy nghĩ nhiều.

Hơn nữa, phương pháp giảng dạy này dùng đường lối thuyết trình ( didactique ), nghĩa là độc thoại một chiều từ phía người nói đến người nghe, sử dùng khá nhiều từ ngữ Thần Học cao siêu và Mầu Nhiệm khó hiểu, gây ra bầu khí động não căng thẳng, nặng nề, khô khan, thiếu sự trao đổi và cảm nhận sống động nơi các em.

Nếu đành phải áp dụng phương pháp này trong giảng dạy thì phải huy động thêm nhiều phương cách hỗ trợ để minh họa dẫn dắt các em từ những cái khó hiểu đi dần tới những cái dễ hiểu.

Một hình thức biến thể và đơn giản hóa của phương pháp diễn giải là các sách Giáo Lý Hỏi – Thưa dành cho trẻ em, mà hiện nay một số Giáo Phận, đặc biệt ở miền Bắc vẫn đang còn áp dụng.

2. Phương pháp quy nạp ( Méthode inductive ):

Người dạy khởi đi với các kinh nghiệm của bản thân, hoặc những dẫn chứng thực tế, những câu chuyện trong đời sống thường nhật mà người học có thể từng trải và cảm nhận một cách tự nhiên. Từ đó tiến dần đến một kết luận có tính khái quát về nội dung vấn đề muốn truyền đạt.

Ví dụ: Học về việc “Thiên Chúa ban trí khôn loài người” trong chương trình Giáo Lý Khai Tâm. Kể truyện em bé Hi-cô-i-chi trong truyện Tảng Đá Chắn Đường ( xin xem Tuyển Tập Nối Lửa Cho Đời số 2 ). Bắt đầu từ đời sống nhân bản: Em có trí khôn nên em sống khôn ngoan và làm vui lòng mọi người. Dẫn vào nội dung Giáo Lý: Em được Thiên Chúa ban cho trí khôn để có thể nhận biết Chúa, sống yêu thương như ý Chúa muốn. Đẩy tới tâm tình tôn giáo: Mỗi tối, trước khi đi ngủ, em thưa với Chúa: “Xin cho con biết điều gì đẹp lòng Chúa để con làm, và điều gì làm buồn lòng Chúa để con tránh”...

Phương pháp này rất phù hợp với trẻ em, vì các em thường suy nghĩ bằng sự kiện và hình ảnh hơn là bằng ý niệm và lý luận trừu tượng. Hơn nữa, phương pháp này dùng đường lối đối thoại ( méthode dialogique ), nghĩa là có tương quan hai chiều giữa người hướng dẫn và người khám phá. Thầy gợi ý để trò suy nghĩ và từng bước tiến gần đến chân lý. Các câu hỏi vừa tầm, mở đường cho lời đáp, tiệm tiến, xoáy dần vào vấn đề chính.

Chúng ta nhận thấy Đức Giê-su đã dùng phương pháp quy nạp một cách xuất chúng khi luôn mở đầu một bài giảng bằng một dụ ngôn hoặc bằng một hình ảnh, một sự kiện bình thường trong cuộc sống con người.

III. CÁC PHƯƠNG CÁCH HỖ TRỢ:

Để việc áp dụng các phương pháp vừa nói ở trên đạt được hiệu quả cao nhất, xin đề nghị 2 phương cách hỗ trợ.

Cần lưu ý là cả 2 phương cách này đều dựa trên nguyên tắc năng động ( dynamique ), đòi hỏi người Giáo Lý Viên như một Linh Hoạt Viên trong lớp Giáo Lý, biết cách huy động các em trong một bầu khí vui tươi sống động, biết cộng tác với nhau trong việc khám phá từng bước và toàn bộ nội dung Giáo Lý thông qua các Trò Chơi, Bài Hát, Truyện Kể và những sinh hoạt tập thể như: Kịch Chạy, Pa-Nô Chạy, Báo Chạy... ( Xin xem thêm tuyển tập Nối Lửa Cho Đời số 1 )

Như thế, các phương cách hỗ trợ này tạo ra các tương quan đa chiều, không những giữa Giáo Lý Viên và các em, mà còn giữa các em với nhau trong sự hướng dẫn của Giáo Lý Viên. Khái niệm dạy – học trong một bầu khí sống động như vậy, sẽ trở nên tương đối, mà đúng hơn, phải thay bằng khái niệm cùng nhau khám phá.

Không gian lớp học thường được sắp xếp rất linh động uyển chuyể. Bàn ghế có thể bố trí theo hình vuông, hình chữ nhật hoặc chữ U. Cũng có thể bỏ hết bàn ghế để thầy và trò ngồi xuống đất theo hình tròn. Đương nhiên, số lượng các em không nên quá đông ( vượt quá 30 trẻ ) để việc hội thoại, sinh hoạt và hoạt động không bị loãng hoặc hỗn độn, cả lớp đều dễ dàng tham gia mà ít có em nào thụ động khép kín.

Ở đây xin tạm phác họa một xã hội đồ ( sociogramme ), các mũi tên đan xen qua lại sẽ diễn tả những mối tương quan đa chiều trong lớp xoay quanh nội dung Giáo Lý được đem ra hội thoại, giữa Giáo Lý Viên ( ô tròn tô đậm ) và các em ( các ô để trắng ):

1. Phương cách trực quan ( intuitive ):

Trực quan nghĩa là các em có thể trực tiếp vận dụng một hoặc nhiều giác quan ( mắt nhìn, tai nghe, tay chạm, mũi ngửi, lưỡi nếm ), để từng chút một, thông qua các sự việc, sự vật và khái niệm trung gian mà đến gần hơn với nội dung Giáo Lý.

Phương cách này đặc biệt thu hút các em học sinh Giáo Lý, nhưng cũng dễ gây ấn tượng nếu khéo áp dụng cho cả các dự tòng người lớn.

Ở đây, chúng tôi xin đơn cử hai mặt trực quan sinh động dễ được vận dụng nhiều nhất:

  • Mắt nhìn ( thị giác ), Giáo Lý Viên có thể vận dụng các tranh ảnh, pa-nô cắt dán minh họa một phần của nội dung Giáo Lý, một tấm bản đồ Đất Thánh, một bản phân nhánh hình thành các Giáo Phận ở Việt Nam, một bản gia phả Chúa Giê-su, một bình hoa thật đẹp, sách Kinh Thánh... hoặc một mẫu vật thật như: hòn đá núi, ngọn đèn có giá, con chim sẻ trong lồng, đồng bạc cổ, chùm nho, bó lúa, đóa hoa dại, nhánh cỏ lùng... gợi liên tưởng đến các câu Lời Chúa trong Tân Ước... Cũng có thể cho các em chơi trò chơi lắp ghép tranh hình ô vuông theo một tranh Kinh Thánh mẫu, làm Báo Chạy, Pa-nô Chạy...
  • Tai nghe ( thính giác ), Giáo Lý Viên có thể mở cho lớp nghe một bài Thánh Ca, một câu truyện kể với nhạc nền được thâu sẵn trong băng cassette có nội dung dẫn vào hoặc củng cố bài Giáo Lý. Ngoài ra, phải kể cả các loại hình minh họa Sư Phạm Giáo Lý như kể truyện, đọc truyện, tập hát cũng giúp vào việc nghe hết sức hiệu quả. Cũng có thể cho lớp chơi các trò chơi Kim về thính giác để nhận định những tiếng động khác nhau của các mẫu vật, những âm giọng riêng của từng người... từ đó dẫn nhập vào bài dạy.

2. Phương cách hoạt động ( active ):

Ở phương cách này, Giáo Lý Viên vận dụng tối đa các phương pháp năng động như Lập Phiếu, Nhóm Ong, Động để tổ chức các dạng sinh hoạt tại lớp như: hoạt cảnh, diễn kịch ngắn, Báo Chạy, Pa-nô Chạy, triển lãm mi-ni...

Giáo Lý Viên các khối cũng có thể phối hợp tổ chức cho nhiều khối học sinh Giáo Lý sinh hoạt các trò chơi trong Hội Trường hoặc tại sân Giáo Xứ, hoặc thỉnh thoảng tổ chức Trò Chơi Lớn, Chiến Dịch Giáo Lý ( x. thêm tuyển tập Nối Lửa Cho Đời số 1 ).

Cuối học kỳ hoặc cuối năm, có thể tổ chức cho các em một chuyến đi hành hương, phục vụ từ thiện, xuất du, những buổi xem phim Kinh Thánh, phim Giáo Dục... Sau mỗi buổi hoặc mỗi chuyến đi như thế, cả lớp sẽ họp mặt với nhau để lượng giá, trao đổi, chia sẻ và được Giáo Lý Viên hỗ trợ, sẽ cùng nhau rút ra một chân lý Tin Mừng cần lãnh hội.

Được như vậy, nội dung Giáo Lý sẽ khắc họa sâu xa trong tâm hồn, và được biến thành “sự sống” cụ thể nơi mỗi em.

Học đi đôi với hành, kiến thức hòa nhập với cảm nhận, các em sẽ thật sự gặp gỡ Đức Ki-tô, đến gần với Thiên Chúa hơn, đồng thời lại nhận ra rất rõ chiều kích tha nhân và sự hiệp thông trong Giáo Hội qua những bạn học cùng lớp cũng như qua tha nhân mà các em tiếp xúc, đặc biệt là “người nghèo”.

IV. KẾT LUẬN:

Xin nhắc lại, mục tiêu ở đây chính là giúp học viên gặp gỡ Đức Ki-tô, hiểu biết, yêu mến và sống theo Lời của Người. Do vậy, các phương pháp nêu trên chỉ mang ý nghĩa chuyển tải và hỗ trợ, đừng quá lệ thuộc.

Cũng xin nhớ là không có phương pháp nào là chuẩn mực và lý tưởng cho mọi Giáo Lý Viên, mọi độ tuổi các em và trong mọi lúc, mọi trường hợp, do vậy, dùng phương pháp nào đi nữa thì cũng không miễn chước cho mỗi Giáo Lý Viên khỏi việc tự mình khao khát tìm hiểu, cầu nguyện và sống Lời Chúa.

BẦU KHÍ MỘT LỚP GIÁO LÝ


I. DẪN NHẬP:

Để giúp các trẻ em có hứng thú khi đến với lớp, và hơn nữa có thể lãnh hội sâu xa vững chắc nội dung bài Giáo Lý, từ đó trẻ lại còn có thể diễn tả được niềm tin của mình ít là ngay tại lớp, các Giáo Lý Viên cần phải biết tạo bầu khí cho lớp Giáo Lý, phải biết cách trình bày nội dung Giáo Lý, và riêng với trẻ em, còn phải biết giúp sinh hoạt một cách sống động vui tươi. Muốn vậy, các Giáo Lý Viên nên chú ý đến các yếu tố vật chất và các yếu tố tinh thần được trân trọng đề nghị sau đây:

II. CÁC YẾU TỐ VẬT CHẤT:

1. Khung cảnh:

Trong thực tế tại các vùng ngoại thành và nông thôn nghèo, khó mà có Trong thực tế tại các vùng ngoại thành và nông thôn nghèo, khó mà có được những phòng học Giáo Lý lý tưởng như tại một số không lớn lắm các Giáo Xứ tại các đô thị và thành phố. Do vậy ở đây xin mở rộng khái niệm phòng học Giáo Lý thành khung cảnh Giáo Lý.

Dù thế, ở bất cứ khung cảnh nào, khi mở một lớp Giáo Lý, chúng ta cũng cần ý thức rằng lớp Giáo Lý chính là nơi Thiên Chúa gặp gỡ con người, nên phải có tính cách thánh thiêng. Đây cũng không phải là một lớp học Phổ Thông, vì Giáo Lý không chỉ là học, cũng không phải là Nhà Thờ, vì Huấn Giáo khác với Phụng Vụ. Nơi học Giáo Lý có thể được coi như một khung cảnh nằm giữa thế giới bên ngoài và cung thánh Nhà Thờ.

2. Bầu khí:

Dạy Giáo Lý là hướng dẫn các em đi từ đời thường, chuyển dần sang đời sống hiệp thông với Chúa, rồi từ đó lại quay về với đời thường. Quay về nhưng đã khác trước, bởi các em đã gặp Chúa, đã nhận được từ Chúa một vốn liếng Tin Mừng để sống khác hơn, tốt hơn, là con cái của Chúa sâu đậm mật thiết hơn trước.

Cho nên, bầu khí lớp Giáo Lý có nét giống như Nhà Thờ ( nếu là trong phòng ), có khung cảnh giống như nơi ông Mô-sê, ông Gio-an Tẩy Giả, và chính Chúa Giê-su đã gặp gỡ Thiên Chúa trong sa mạc ( nếu ở ngoài trời ), nhờ đó mới có thể nâng tâm hồn người học lên tới sự thánh thiêng.

III. CÁC YẾU TỐ TINH THẦN:

1. Tâm lý:

Trong mối tương quan xưng hô và ứng xử giữa Giáo Lý Viên và các em cũng đặt ra những vấn đề tâm lý đặc biệt, khác hẳn ở các lớp học Phổ Thông. Chúng ta sẽ không gọi các em là học trò. Bởi thật ra bản thân Giáo Lý Viên không phải là người dạy chính thức, mà là chính Đức Giê-su và Thần Khí của Người đang tác động và hướng dẫn.

Do vậy, Giáo Lý Viên nên nói với trẻ em, tùy độ tuổi hai bên mà gọi là "các em", "chúng con", "các bạn" cho thân tình gần gũi.

Trong tâm lý trẻ em, có một quy luật là luật Chuyển Hóa, nghĩa là trong quan hệ của các em với Chúa, các em sẽ dùng chính những quan hệ đã có với Giáo Lý Viên. Các em nói với Giáo Lý Viên thế nào thì cũng thưa với Chúa như vậy. Do đó, thái độ của các em với chúng ta sẽ ảnh hưởng nhiều trên thái độ với Chúa: cách yêu mến, tin tưởng, thân mật, vâng lời...

Chúng ta sẽ là một phần "hình ảnh" của Chúa cho các em. Các em sẽ thấy Chúa, gặp Chúa nơi chúng ta.

Và như thế, chúng ta phải hết sức chú ý tu dưỡng và tự huấn luyện tư cách của mình. Chúng ta sẽ tôn trọng các em, trân trọng những lời các em nói, không bao giờ quát tháo, nhiếc móc, trừng phạt, xúc phạm đến phẩm giá các em.

Mở rộng hơn, vì đã không phải là một lớp học Phổ Thông, nên cũng không cần thiết cho điểm, xếp hạng các em trong lớp. Trong giờ Giáo Lý, thật sự là Giáo Lý Viên sẽ cùng các em lắng nghe Lời Đức Giê-su là Người Anh Cả (Trưởng Tử ), lắng nghe tiếng Thiên Chúa là Cha, rồi tất cả cùng thưa với Người. Các em sẽ nhận ra mình được Chúa yêu và được Giáo Lý Viên là người thay mặt Chúa quý mến mình.

Một quy luật tâm lý khác là luật Chứng Tá. Huấn Giáo dựa trên chứng tá. Giáo Lý Viên chia sẻ chính kinh nghiệm của mình cho lớp. Chúng ta không cần nói nhiều về Đạo, nhưng cần sống Đạo nhiều hơn và chân thật hơn trước mặt trẻ. Khi chứng tá của Giáo Lý Viên có phẩm chất cao, thì các em sẽ được giáo dục sâu xa hơn.

Nếu thế, có người sẽ thắc mắc: "Thế, chẳng lẽ làm Giáo Lý Viên, tôi phải là Thánh hay sao ?"

Xin thưa, đúng là như vậy, trong thông điệp Sứ Vụ Đấng Cứu Chuộc (Redemptoris Missio ), ở chương 8, Đức Giáo Hoàng Gio-an Phao-lô đệ nhị đã vạch ra Linh Đạo của người truyền giáo ( mà Giáo Lý Viên đúng là người truyền giáo ) như sau:

  • Để cho Chúa Thánh Thần hướng dẫn,
  • Theo gương Đức Giê-su Ki-tô, Đấng được sai đến,
  • Yêu mến Giáo Hội và các linh hồn như Chúa Giê-su yêu mến,
  • Và, phải là THÁNH !

Giáo Lý lấy từ Nguồn Sống là Thiên Chúa, Giáo Lý lấy từ Nguồn Sống là Thiên Chúa, được truyền đạt đến các em qua chính cách dạy và cách sống của Giáo Lý Viên.

Như vậy, các em vừa được biết Giáo Lý, lại vừa thấy cung cách sống nội dung Giáo Lý ấy một cách sinh động cụ thể nơi Giáo Lý Viên, chắc chắn các em sẽ được khích lệ đi theo hướng sống Tin Mừng ấy.

2. Thinh lặng:

Trẻ không thể gặp Thiên Chúa trong bầu khí ồn ào hỗn độn. Nhiều người cứ lầm tưởng lớp học Giáo Lý cho trẻ em lúc nào cũng phải giống một câu lạc bộ với đủ thứ sinh hoạt tưng bừng náo nhiệt. Ngược lại cũng đừng áp đặt một kiểu thinh lặng bề ngoài, vì một thinh lặng thụ động thì không dẫn đến Thiên Chúa.

Chính trong bầu khí thinh lặng nội tâm, những lời trò chuyện hội thoại giữa Giáo Lý Viên và các em, giữa các em với nhau lại là điều kiện giúp các em đến với Thiên Chúa, Đấng các em khao khát kiếm tìm xuyên qua nội dung bài Giáo Lý.

Vì thế, Giáo Lý Viên cần khuyến khích trẻ khám phá và yêu quý sự thinh lặng. Thinh lặng là một đức tính tôn giáo. Biết thinh lặng là biết "ở trước mặt Chúa", là biết sẵn sàng lắng nghe tiếng Chúa nói.

3. Vui tươi:

Trong giờ Giáo Lý, Giáo Lý Viên phải tạo được bầu khí vui tươi cởi mở, không biến các em thành những nhà khổ tu, hay những binh sĩ giữ kỷ luật khô khăn một cách răm rắp. Các em có thể hỏi nhau, giải thích cho nhau, khi cần có thể đi lại, hỏi mượn nhau dụng cụ học tập. Nhưng mọi sự phải được diễn ra trong cái trật tự của thinh lặng, dễ thương và hồn nhiên. Ở đâu có Chúa, ở đấy có tình yêu và niềm vui.

Giáo Lý Viên phải luôn giúp các em ý thức mình đang sống dưới cái nhìn trìu mến của Chúa, đến nỗi trước giờ học thì các em thấy khao khát, cuối giờ học thì các em vẫn còn muốn tiếp tục.

Trong lớp Giáo Lý, không thể có chuyện học để được nhiều điểm, để được đứng nhất khi so kè kèn cựa với các bạn, hoặc thậm chí cũng không chỉ nhắm đến việc thu thập kiến thức càng nhiều càng tốt. Ở đây, các em cùng nhau gặp gỡ Chúa và đi theo Người.

Ở một chiều kích nhân cách Ky-tô giáo, các em còn được luyện tập để tôn trọng yêu quý lẫn nhau. Nếu có hai em lỡ đánh nhau, thay vì chỉ chú ý phân giải ai đúng ai sai, bạn hãy hỏi các em: "Những người con của Chúa có đánh nhau không ? Tay các con, Chúa ban cho là để làm việc tốt, làm những cử chỉ đẹp cho nhau cơ mà !"...

4. Tự do:

Trẻ cần cảm thấy tự do đến với lớp Giáo Lý, tự do ở lại và tự do lắng nghe Giáo Lý Viên trình bày nội dung Giáo Lý. Không nên biến việc học Giáo Lý thành một công việc khổ sai, bị cha mẹ bó buộc, bị cha sở và các ông bà quản giáo khống chế. Đến với Chúa rõ ràng là một lời mời gọi, khuyến khích tự nguyện. Hãy thành thật nói với trẻ: "Các con có muốn gặp gỡ Chúa, thì các con hãy đến !".

Đức Tin là một hành vi tự do. Vì thế, trong giờ học, hãy để trẻ được tự do nói với Chúa, nói về Chúa trong sự hướng dẫn ân cần và nhẫn nại của Giáo Lý Viên. Không thể đào tạo một tín hữu chân chính bằng cách dọa nạt, trừng phạt hay ra lệnh.

Dứt khoát không nên lấy cớ tránh tác hại lây lan, ảnh hưởng đến việc học của các em bình thường để chủ trương tách hẳn các em cá biệt ra, lập một lớp riêng để có chương trình uốn nắn riêng theo kiểu quen làm ở các trường Phổ Thông. Như vậy là đã phản giáo dục hoàn toàn khi phân biệt đối xử, vô tình "dán nhãn" xếp loại các em ngỗ nghịch, cứng đầu, khó dạy.

Sư Phạm Giáo Lý thì khác hẳn, Đức Giê-su bảo: "Tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi !" ( Mt 9, 13 b ). Hơn nữa ở đây, các em chưa phải là hạng người... tội lỗi. Cho dẫu các em đã phạm pháp trầm trọng, thì như Thánh Đông Bốt-xcô dặn dò các nhà giáo dục: vẫn còn ít nhất là 5 % lương tri hướng thiện.

5. Trung thực:

Có thể nói ở nhà trường Phổ Thông, trẻ quen nói dối ! Trẻ nhận ra cứ nói đúng ý thầy cô là được điểm cao, là được thầy cô ưu đãi. Làm bài thi, thì phải khéo léo khôn ngoan để "quay cóp" hoặc "trúng tủ" mới mong ngoi lên để trúng tuyển, hạ "đo ván" các bạn học. Điểm số, bằng khen và các danh hiệu phấn đấu đạt được thường là dựa trên sự bon chen thủ lợi, thiếu vắng hẳn sự thật thà trong sáng.

Trong Giáo Lý, dứt khoát chúng ta không được để óc thực dụng này tiêm nhiễm. Giữa cuộc hội thoại, trẻ được thẳng thắn nêu thắc mắc, nói lên suy nghĩ và cảm nhận của mình.

Khi làm bài, trẻ được mời gọi viết lại điều đã hiểu và đã yêu mến một cách chân thành, chứ không phải chép nguyên xi toát yếu để làm hài lòng Giáo Lý Viên.

Khi trẻ trả lời, bạn đừng khen hay chê. Nếu được khen "đúng", lần sau trẻ lại tìm cách trả lời để được khen, dù đó không phải là điều em đã nghĩ và đã hiểu. Còn nếu chê "sai", trẻ sẽ không bao giờ nói nữa.

Câu vè: "Thấy tốt thì làm, mà làm thì làm cho tốt, đừng cốt được khen, đừng quen vì khen mới làm" thật đáng cho các Giáo Lý Viên chú tâm mời gọi các em sống như một châm ngôn.

IV. KẾT LUẬN:

Trong mọi trường hợp và trong mọi mặt, các bạn Giáo Lý Viên hãy luôn xác tín, hãy tin vào trẻ, hãy tin vào Chúa Thánh Thần, và hãy tin vào chính bạn.

Để đúc kết, xin mượn lời Thánh Phao-lô: "Anh em là những người được Thiên Chúa tuyển chọn, hiến thánh và yêu thương. Vì thế, anh em hãy có lòng thương cảm, nhân hậu, khiêm nhu, hiền hòa và nhẫn nại. Hãy chịu đựng và tha thứ cho nhau. Trên hết mọi đức tính, anh em phải có lòng mến, đó là mối dây liên kết tuyệt hảo !" ( Cl 3, 13 – 14 )

TIM HIEU TAM LY TRE EM

TÌM HIỂU TÂM LÝ TRẺ EM - PHẦN 1


I. DẪN NHẬP VỀ TÂM LÝ HỌC:

Từ lâu, trên thế giới, khoa Tâm Lý Học đã phát triển, củng cố và đem lại nhiều kết quả to lớn cho hầu như tất cả các ngành khoa học xã hội và tự nhiên của nhân loại. Tâm Lý Học được định nghĩa nhiều cách để chúng ta có thể thấu đáo được hết mọi khía cạnh như sau:

Đó là một khoa học tìm hiểu về ý thức con người để biết mình biết người, đường biết ứng xử cho hợp tình hợp lý, đường biết sống một cách hài hòa và sung mãn, để trưởng thành tốt đẹp ứng với từng lứa tuổi, và tránh được những thất bại trên đường đời.

Đó là một khoa học về con người với những suy tư và hành động, cảm nhận và tương tác, bên trong và bên ngoài, chiều sâu và chiều rộng. Tất cả đều được quan sát, mô tả và giải thích, đối chiếu với thực tế kinh nghiệm chung của xã hội, của nhân loại.

Như thế, tâm lý chính là cuộc sống con người với muôn hình muôn dạng, đầy bí nhiệm, rất khó khám phá và không bao giờ có thể hiểu cho trọn vẹn, bởi đối tượng của nó là con người, luôn chuyển biến, lớn lên và triển nở về thân xác lẫn tinh thần.

II. TÌM HIỂU TÂM LÝ TRẺ EM:

Trong chừng mực của vấn đề giáo dục thanh thiếu niên và thiếu nhi, các nhà sư phạm và giáo dục cũng sẽ không thể nào bỏ qua, không tìm hiểu Khoa Tâm Lý Học đặc biệt đối với từng lứa tuổi các em.

Chúng ta sẽ lần lượt nghiên cứu dựa vào những thành quả quý giá, tích lũy từ bao thời, của bao người cũng như chính các nét đặc thù truyền thống của dân tộc Việt Nam chúng ta nữa.

Ngoài ra, mỗi người chúng ta cũng nên đối chiếu lại với chính kinh nghiệm thời thơ ấu và niên thiếu của mình, những gì mình đã bị gánh chịu thiệt thòi, cũng như những gì mình đã may mắn được đón nhận. Xin hãy luôn nhớ: bản thân mỗi người chúng ta đều từng là một đứa trẻ nhỏ. Vậy, xin đừng biến các trẻ nhỏ hôm nay thành “những ông cụ non”, các “bà thánh nhỏ”, nghĩa là bắt các em phải rập khuôn về tâm lý và luân lý theo kiểu người lớn, một điều mà ngày xưa chính chúng ta đã bực bội khó chịu và âm thầm đề kháng mỗi khi bị áp đặt !

Sau đây, chúng ta lần lượt tìm hiểu tâm lý các em ở từng độ tuổi thể lý.

III. LỨA TUỔI ẤU NHI ( 1 – 3 tuổi):

Trong thực tế, ở độ tuổi này, các em vẫn còn hoàn toàn thuộc về vòng tay chăm sóc và giáo dục của bố mẹ và anh chị trong gia đình các em. Thế nhưng, các Huynh Trưởng và các Giáo Lý Viên vẫn cần nghiên cứu thấu đáo để có thể hiểu được các diễn biến tâm lý nơi các em đến sinh hoạt với mình sau này, bởi nơi mỗi một con người luôn có một sự phát triển liên tục từ độ tuổi này sang độ tuổi khác, cái trước làm tiền đề cho cái sau kế thừa.

Với lứa tuổi Ấu Nhi. Các nhà chuyên môn gọi giai đoạn tâm lý này là Première Enfance, bởi lý do khởi từ đây, đứa bé bắt đầu “thôi nôi”, lẫm chẫm tập đi những bước đầu đời, đưa tay sờ nắm bất cứ vật gì nằm trong tầm tay, dõi mắt khám phá những khung cảnh tương đối xa hơn và hoàn toàn mới lạ, phạm vi tương quan tiếp xúc với tha nhân cũng rộng hơn chứ không chỉ dừng lại nơi vòng tay người mẹ.

Do vậy, cần chuẩn bị cho bé một không gian và môi trường an toàn, khoáng đãng, không ô nhiễm về tiếng động và khí thở, có nhiều đồ vật tròn trĩnh, dễ thương, nhiều màu sắc hài hòa mà hấp dẫn.

Ngoài ra, bầu khí tương quan chung quanh phải nhất thiết là sự trìu mến, yêu thương, hạnh phúc. Giấc ngủ của các em có thể được nâng niu bằng âm nhạc, nhất là những điệu ru hời dân gian Việt Nam và nhạc cổ điển êm dịu của Tây phương...

Tóm lại, đây là thời kỳ của những giác động ( sensori motrice) mở ra cho các em những tiếp xúc vật chất và những tương quan nhân vị, chủ yếu dựa vào ngũ giác quan ( nhìn, nghe, ngửi, nếm, sờ) vượt trội hơn hẳn giai đoạn bé còn nằm trong nôi hoặc được bồng ẵm trên tay của người lớn.

Riêng đối với việc chuẩn bị giúp thức tỉnh những tâm tình tôn giáo lành mạnh nơi các em, chúng ta có thể tìm đọc cuốn “L’Éveil Religieux du Tout Petit” của Chanoine Boyer.

Cũng cần phải nhìn nhận rằng: điều gì đã là khởi đầu thì tất yếu sẽ là nền tảng hết sức quan trọng cho tương lai. Ngay trước lứa tuổi Ấu Nhi này, các nhà chuyên môn đang mở ra một giai đoạn ngược về thời kỳ đứa bé còn nằm trong bụng mẹ để khởi sự việc giáo dục một cách gián tiếp bằng khoa Thai Giáo.

IV. LỨA TUỔI NHI ĐỒNG ( 3 – 7 tuổi)

Bước vào giai đoạn này, các nhà chuyên môn gọi là giai đoạn Deuxième Enfance, bởi các em có thể đã được gửi vào Nhà Trẻ ( trước đây gọi là Vườn Trẻ – Jardin d’ Enfants) và sau đó bắt đầu vào các lớp Mẫu Giáo Mầm Chồi Lá.

Tại các nước tiên tiến, phong trào Hướng Đạo mới đây đã khai sáng thêm ngành Nhi, đặt trước các ngành Aáu, Thiếu, Kha, Tráng vốn đã có từ lâu. Riêng ở Việt Nam, việc thử nghiệm ngành Nhi cũng đã được khởi sự.

Gạt ra ngoài lý do không đáng khuyến khích là bố mẹ các em chỉ muốn đùn cho xã hội phải lo thay để mình còn rảnh tay làm ăn và giải trí, thì phương cách sớm cho các em đến trường cũng có những giá trị tích cực.

Đây là dịp để các em được mở rộng tiếp xúc nhiều hơn nữa với thế giới chung quanh muôn màu muôn vẻ, đồng thời các em được các cô bảo mẫu, các thầy cô giáo Mẫu Giáo có lương tâm tập tành cho các em một số những đức tính, những thói quen tập quán tốt.

Thế nhưng, ngoài thời gian đi Nhà Trẻ hoặc Mẫu Giáo, thì không gian, thời gian và bầu khí sống chính yếu của các em vẫn là gia đình. Đây là thời kỳ các em phải trải qua một cơn khủng hoảng tâm lý tương đối nhẹ nhàng để tự củng cố cái Tôi ( le Moi) của mình.

Các em bắt đầu ý thức được rằng mình có thể cưỡng chống lại tất cả những gì xem ra người lớn muốn áp đặt lên tự do của mình. Sau một đôi lần thành công, các em sẽ tìm cách tận dụng khả năng này, sao cho có lợi nhất cho bản thân, không cần quan tâm rằng điều đó có lợi hay có hại cho mình và cho người khác.

Trí khôn của các em chuyển dần từ chỗ tiền quan niệm ( précon-ceptuelle) còn khá mơ hồ, sang thế trực giác ( intituive) một cách cụ thể.

Cũng trong giai đoạn này, các em thường tự tìm hiểu hoặc đặt ra cho người lớn những câu hỏi “tại sao?” có chủ ý vụ lợi ( utilitaire) và có chủ đích ( finaliste) rằng điều đó, cái đó “để làm gì vậy?”

Do vậy, người lớn cần kiên nhẫn để trả lời các câu hỏi loại này, đồng thời hướng các em đến những khái niệm bớt vị kỷ vụ lợi cho bản thân. Cũng đừng nên trình bày vấn đề quá sâu xa phức tạp khiến các em đâm ra lúng túng, nản chí hoặc bị ngộ nhận tai hại về lâu về dài.

Đối với lứa tuổi này, những chuyến đi dạo công viên, nghỉ mát giữa thiên nhiên bao la trong lành là những dịp giúp các em mở rộng tâm tình và óc tò mò đến những khái niệm tốt lành, đẹp đẽ, dễ thương. Âm nhạc cổ điển hoặc hòa tấu cũng giúp một phần quan trọng để giúp các em hình thành sự nhân ái dịu dàng.

Về mặt sinh hoạt, các em bắt chước người lớn rất nhanh, cộng thêm trí tưởng tượng đang hình thành khá phong phú để tự bày ra các trò chơi như: xây nhà, nấu bếp, dọn hàng, ru búp bê, và có thể cứ thế mà chơi một mình rất lâu, ngày này qua ngày kia không biết chán...

Về mặt tôn giáo, các câu truyện cổ tích giữ một vai trò quan trọng. Các tính cách nhân ái, thật thà, hiếu thảo nơi các nhân vật trạc tuổi các em sẽ đặc biệt được ghi sâu trong tiềm thức, dần dần mở ra cho tính cách tôn giáo hướng thượng nếu người lớn biết kết hợp với việc giúp các em cầu nguyện, tham dự thánh lễ...

Tại một số nước phương Tây hiện nay có chủ trương đến tuổi này mới cho các em được chịu Bí Tích Thanh Tẩy cũng phần nào là chính đáng, bởi nếu các em được chăm lo đúng cách và đúng mức, các em bắt đầu nảy nở những tâm tình tôn giáo chính thức ở giai đoạn này.

V. LỨA TUỔI THIẾU NHI ( 7 – 11 tuổi):

Đây là giai đoạn Troisième Enfance, lứa tuổi bắt đầu theo học Tiểu Học, hoặc còn gọi là Phổ Thông Cơ Sở cấp 1. Ngoài ra, các em cũng có thể được cha mẹ cho tham gia các lớp Giáo Lý Khai Tâm, các Đoàn thể tôn giáo như Thiếu Nhi Thánh Thể, Húng Tâm Dũng Chí, các phong trào giáo dục như Hướng Đạo...

Đây cũng là lứa tuổi mà những ai thật sự muốn dấn thân trở thành người cộng tác mật thiết với gia đình các em để chăm lo việc giáo dục nhân bản và tâm linh cho các em, như các Giáo Lý Viên, các Huynh Trưởng, các thầy cô giáo rất cần quan tâm tìm hiểu.

Do vậy, kể từ phần này trở đi, vấn đề sẽ được cố gắng phân tích chi tiết và sâu xa hơn trong từng đề mục có liên quan trong từng lứa tuổi.

1. CÁC EM MANG ĐẬM MẶC CẢM:

Tự bẩm sinh, các em đã mang mặc cảm ¬dipe ( le complexe d’ ¬dipe). Thần thoại Hy-lạp kể rằng: ¬dipe do cuộc đời oan nghiệt đưa đẩy, đã ngộ sát cha mình là Laios để lên ngôi vua và cưới luôn mẹ là Jocaste làm hoàng hậu... Các nhà Tâm Lý Học mượn điển tích này để diễn tả hiện tượng tâm lý bẩm sinh phổ biến nơi lứa tuổi thiếu nhi.

Các em luôn tìm sự gần gũi, yêu thương, chiều chuộng của người lớn khác phái: bé gái gần bố mà xa mẹ, còn bé trai lại gần mẹ xa bố. Đây không phải là một tội lỗi ghê gớm đáng lên án và nghiêm phạt như cách nghĩ thiển cận của một số người chủ trương đạo đức quá khắt khe cổ hủ.

Cần phải biết khéo hướng dẫn để giúp các em từ từ nhận ra sự cần thiết phải có đủ các tính cách giáo dục qua cả bố lẫn mẹ, anh và chị trong gia đình, cả thầy lẫn cô ở trường và ở lớp Giáo Lý. Sau này, khi bước vào tuổi dậy thì, các em sẽ dần dần chuyển hóa sang thế quân bình về phái tính.

Nếu người lớn quá khắc nghiệt hoặc lơi lỏng thiếu quan tâm, có thể sẽ gây ra nơi các em những ấn tượng lệch lạc, di hại suốt đời các em về mặt nhân cách tâm lý và ứng xử. Ngược lại, cần bắc một nhịp cầu hết sức tế nhị để gặp gỡ chính tâm hồn bé bỏng non nớt của các em, biết mở chuyện hỏi han các em bằng ngôn ngữ và cung cách của chính các em.

Khi đó, các em mới dễ bộc lộ một cách hồn nhiên những tâm sự, những “bí mật” có khi rất ngô nghê của các em, mà không hề e dè, giấu giếm, sợ người lớn la rầy, kết tội hoặc chế giễu.

Ở điểm này, người Huynh Trưởng đối với các em phải như là người cha người mẹ thứ hai, có tấm lòng yêu thương chăm sóc, ân cần tận tụy và tinh tế nhạy cảm, nắm bắt cho được mọi biểu hiện tích cực lẫn tiêu cực nơi các em.

2. CÁC EM TIN TƯỞNG NGƯỜI LỚN TUYỆT ĐỐI:

Các em đã dần dần không còn muốn loanh quanh luẩn quẩn ở xó nhà góc bếp, nhưng bắt đầu thích làm quen nhiều bạn nhỏ và nhiều người lớn khác. Vì vậy, nếu các em nhận ra nơi các người lớn như thầy cô giáo, linh mục, nam nữ tu sĩ, Giáo Lý Viên, Huynh Trưởng... một sự bảo bọc chở che, nhất là sự quan tâm cảm thông thật sự, các em sẽ dần dần quấn quít, tin cậy đến mức tuyệt đối.

Hãy tránh đừng bao giờ đùa chơi với các em bằng cách xí gạt để các em mắc lừa cho vui. Cũng đừng bao giờ tạo cho các em cảm tượng bị người lớn áp đặt, ăn hiếp, lấn lướt, sai bảo vặt và khống chế các em bằng luật lệ mà chính người lớn chưa chắc đã tuân thủ đàng hoàng.

Do vậy, thông qua những hoạt động về giáo dục, làm việc, sinh hoạt vui chơi, người lớn cần biết tạo ra cơ hội để gần gũi các em, xóa bỏ mọi ngăn cách về tuổi tác và tâm lý, hòa mình trở nên đơn sơ như trẻ nhỏ, biết cách gợi ý tổ chức cùng chơi, cùng làm với các em, từ đó mới có dịp để giúp đỡ, dạy dỗ các em một cách đầy đủ và kịp thời.

Bên cạnh đó, cũng cần kích thích cho các em luôn háo hức chịu làm quen thêm với nhiều bạn trai bạn gái mới đồng trang lứa ở trường lớp và khu xóm.

Ở điểm này, người Huynh Trưởng đối với các em phải là một quản trò đa năng, biết biến báo, lôi cuốn, trang bị nhiều kỹ năng thành thạo, thu hút được đám đông các em, đồng thời lại có vốn liếng kinh nghiệm về tâm lý để có thể tiếp cận mà lắng nghe và đối thoại với từng em.

3. CÁC EM ÔM ẤP NHIỀU MƠ MỘNG:

Các em rất giàu trí tưởng tượng, nhiều khi quá tin vào những điều huyền hoặc, những truyện cổ tích thần tiên, những truyện thần thoại dân gian được kể trong các lớp học hoặc trước khi đi ngủ buổi tối. Từ đó các em tự thêu dệt những mơ mộng rất dễ thương đến bất ngờ.

Sau này, lớn hơn một chút. Tính thần thoại chuyển dần sang khía cạnh thần tượng hóa một cách đơn giản. Khi các em được tiếp xúc thân tình với một người lớn nào đó có nhân cách cao thượng, các em sẽ nhanh chóng hình thành các ước mơ sẽ có được nhân cách ấy ( ví dụ: “lớn lên em sẽ làm cô giáo như cô...”; “Mai mốt con sẽ đi tu như cha...”; “Em sẽ là một Ronaldo của Việt Nam...”).

Do đó, nếu người lớn biết khéo nương theo trí tưởng tượng và những mơ mộng hồn nhiên trong sáng của các em, có thể hướng dẫn các em dần dần gạn lọc đi những nét viễn vông huyền hoặc để chuyển những giá trị tốt đẹp hiện thực nơi nhân cách các em.

Bước đầu thấu hiểu được những nhu cầu khát vọng ngây thơ của các em rồi, vẫn chưa đủ, bởi tính khí các em luôn bị đột biến, thay đổi hoặc bị tổn thương. Do vậy, ngoài việc hòa mình cùng chơi, cùng trò chuyện với các em, người lớn còn cần khéo léo tạo sức thu hút lâu dài bền bỉ, bằng cách lồng các hoạt động tập thể vào các trò chơi ( học và làm mà là chơi, chơi mà lại là học và làm một cách hữu ích).

Đồng thời, cũng đừng quên tiếp xúc riêng từng em, giúp các em tập nỗ lực nho nhỏ để vươn lên trong từng khát vọng, từng ước mơ hồn nhiên của chính mình, mỗi ngày một chút theo phương pháp giáo dục tiệm tiến.

Ở điểm này, người Huynh Trưởng đối với các em phải là một người bạn trẻ trung, tâm huyết, đáng tin cậy trong mọi mặt sinh hoạt vui nhộn cũng như tâm linh sâu lắng của các em.

4. CÁC EM RẤT ĐA CẢM, DỄ XÚC ĐỘNG:

Tâm hồn các em còn hết sức trong sáng hồn nhiên như trang giấy còn mới tinh. Ngay cả trường hợp một số em phải chịu những di chứng do sự đổ vỡ trong gia đình, thì chắc chắn tâm hồn các em vẫn luôn luôn đa cảm, rất dễ bị xúc động.

Do đó, bất cứ hành động thô bạo nào đối với chính bản thân các em, đối với các em khác, đối với súc vật và đối với thiên nhiên đều gây tổn thương nơi các em, để lại trong tâm trí các em vết sẹo không bao giờ phai nhạt. Cần tránh cho các em phải đối mặt với những nghịch cảnh và bất hạnh, những thực tế quá phũ phàng, những hình ảnh dã man bạo lực trên sách báo, truyền hình, những biến cố quá gay cấn ngoài đường phố, trong gia đình, nơi trường học.

Riêng với các câu truyện kể Giáo Lý, cần nhớ rằng: một nội dung quá bi lụy thương tâm có thể gợi ra nơi các em lòng trắc ẩn nhân ái, nhưng cũng có thể âm thầm hình thành trong tiềm thức và vô thức của các em tính hiếu chiến, hiếu sát, thích trả đũa, nhẫn tâm, hoặc ngược lại, sự mủi lòng ủy mị, mau nước mắt vì quá sức đa sầu đa cảm.

Mặt khác, bên cạnh sự đa cảm, các em vẫn còn thiên nhiều về giác quan, thích sờ tận tay nhìn tận mắt, nên các em rất vui thích khi được thưởng cụ thể bằng vật chất hơn là khen ngợi tuyên dương suông suông vậy thôi. Các em rất hãnh diện thấm thía khi được người lớn khéo léo góp ý khích lệ hơn là phê bình chê trách hay nổi cáu lên quát tháo om sòm.

Chúng ta thấy, nhà trường đã từng áp dụng những cách khen thưởng khá cụ thể như các phiếu “bon point”, các bông hoa điểm 10 cho từng môn học. Còn trong Giáo Lý thì một số cha sở và các sơ vẫn phát các phiếu thưởng khi các em siêng năng đi học hoặc dự thánh lễ... Chắc chắn có nhiều người lớn không thích, cho rằng như thế là gây ra đầu óc thực dụng. Thế nhưng, bản thân chúng ta khi còn bé, hẳn ai cũng đã từng ao ước hoặc hãnh diện khi thấy tên mình được ghi trên Bảng Danh Dự (Tableau d’ honneur) treo tại một nơi trang trọng và dễ thấy ở trường. Còn Sổ Học Bạ ( Livret Scolaire) hoặc Sổ Liên Lạc thì không ai muốn cha mẹ mình lại phải đọc thấy những giòng chữ thầy cô chủ nhiệm phê xấu và yếu kém. Do vậy, đây là những cách khen thưởng có vẻ vật chất nhưng lại hàm ý về chiều sâu tinh thần nhiều lắm...

Ở lứa tuổi này, người Huynh Trưởng đối với các em phải là một “bề trên” hiểu theo nghĩa rộng nhất, nghiêm minh mà quảng đại, công bình mà bao dung, vẫn luôn đòi hỏi cao mà lại biết khích lệ nâng đỡ.

5. CÁC EM RẤT HIẾU ĐỘNG:

Năng lực ở độ tuổi đang tăng trưởng nơi các em luôn dồi dào. Bên cạnh đó, các em cũng đang trải qua một cơn khủng hoảng về trí tuệ, còn gọi là khủng hoảng về ý thức cử động ( idée motrice).

Về mặt sinh hoạt thể lý, các em, kể cả các bé gái, cần phải luôn tay luôn chân, chạy nhảy, leo trèo, nô đủa và hò hét thỏa thích, hoặc im lặng ngồi táy máy, hì hục nghịch phá một trò nào đó, hay làm một việc gì đó vừa sức mình.

Riêng bên nam, các em rất thích các trò chơi đối kháng, mang tính giao chiến và đua tranh giữa hai phe ( ví dụ: kéo co, cướp cờ, đánh trận giả...). Các em sẵn sàng chơi hăng say hết mình, bởi đối với các em, chuyện thắng thua rất là quan trọng, nó nhằm mục đích tự khẳng định cá tính cho dù các em chưa đủ lý luận cao xa gì lắm về bản thân.

Với các em nữ, vấn đề cũng tương tự như khi các em đặc biệt thích các trò chơi tuy nhẹ nhàng hơn con trai, nhưng cũng là chuyện luân phiên thi đua giành phần thắng cho mình ( ví dụ: nhảy cò cò, đánh chuyền, nhảy lèo, chơi ô ăn quan...).

Trong thực tế, người lớn đang bận việc, rất ghét sự ồn ào náo động, lại cho rằng các em đang chơi những trò quá hiếu động, có hại về sức vóc lẫn tâm lý, nên thường la rầy ngăn cấm các em. Người lớn không ngờ đã đẩy các em sớm rơi vào tình trạng dồn nén, có thể tạo ra những tình cảm rối loạn, rất có hại về lâu về dài.

Về sinh hoạt học tập, các em cũng rất dễ hào hứng để cho cuốn theo các ý tưởng, các kiến thức lý thú mới lạ, để không ngừng đặt ra các câu hỏi tò mò thắc mắc. Một khi nơi các em lý trí bắt đầu hoạt động âm thầm, các ý tưởng như thế dần dần sáng tỏ ra, cho dù các em chưa thể lý luận suy diễn theo dạng đặt vấn đề “vì vậy”, “cho nên”, “do đó” như người lớn...

Nhưng mặt khác, các em đã không còn thỏa mãn với dạng câu hỏi “tại sao?” mà đã chuyển dần sang câu hỏi khó hơn nhiều: “làm thế nào?” tức là có khuynh hướng khách quan hơn, sâu xa hơn.

Dù vậy, các em chưa thể cầm lòng cầm trí lâu để kịp phân tích vấn đề và quan sát một cách kiên nhẫn, các em cũng chưa thể tự mình biết cách học hỏi sao cho đúng mức nếu không được người lớn hướng dẫn dưới dạng “học mà chơi” đầy hấp dẫn.

Ở điểm này, người Huynh Trưởng đối với các em phải là một người thầy, một người cô vừa có kiến thức quảng bác, lại vừa có tâm hồn sâu sắc để truyền đạt tri thức, gợi mở sáng kiến và nhất là vun đắp cho các em những tâm tình nhân ái vị tha, vui tươi và dễ thương, đúng với độ tuổi các em.

6. CÁC EM CÓ THỂ TRUNG TÍN ĐẾN CÙNG:

Khi gặp một hoàn cảnh đặc biệt hoặc trong một trường hợp bất ngờ, nếu các em được người lớn tin cậy trao phó một trách nhiệm quan trọng nào đó, với lời giải thích kỹ lưỡng và căn dặn chi tiết, các em sẽ hết sức ý thức về công việc, cảm thấy vinh dự và hãnh diện để cố gắng chu toàn hơn cả mong đợi của người lớn. Ấn tượng sâu sắc này sẽ theo các em suốt cuộc đời, hình thành một nhân cách khó co gì có thể làm biến dạng.

Hiểu được điều này, chúng ta không lấy làm ngạc nhiên khi thấy các phong trào giáo dục đứng đắn trên thế giới đều có những nghi thức tập tục rất long trọng như: trao trách nhiệm Đàn trưởng trong bầy Ấu Sinh, Đội Trưởng Nhất trong Đoàn Thiếu Sinh, làm lễ cho Sói Con mở mắt, đội mũ, trao cờ, tuyên hứa thiếu nhi, thắt khăn quàng, gắn sao...

Riêng với chuyên hiệu cứu thương, các em còn được gắn hai cái cùng lúc trên đầu hai vai áo, xem đó như một trọng trách và vinh dự cao nhất.

Tại trường học, có nơi, nếu biết huấn luyện tinh thần và kỹ thuật tới nơi tới chốn, người lớn có thể tin tưởng giao phó cho các em ở các lớp tiểu học đảm nhận chuẩn bị âm thanh, xếp đội hình danh dự, kéo cờ, bắt nhịp và đồng ca bài quốc ca v.v... mà không sợ gặp sự cố trục trặc, bởi các em ý thức khá chững chạc về tính cách quan trọng và trang nghiêm của công việc cùng với niềm hãnh diện được đại diện cho toàn trường.

Trong thực tế, đã có trường hợp một em đệ tử tiểu chủng viện đã can đảm đứng nguyên một chỗ suốt nhiều giờ để giữ chiếc xe cho vị bề trên của em giốc toàn tâm toàn lực cấp cứu và đưa vào bệnh viện một người bị nạn trên xa lộ vắng người.

Như vậy, ở điểm này, người Huynh Trưởng đối với các em phải là một Người Lãnh Đạo ( leader) đúng nghĩa, biết cách huấn luyện chỉ dẫn cho các em thành thạo tháo vát trong các việc nhỏ, vừa tầm hiểu, vừa sức làm của các em mà lại có tầm quan trọng không thua gì việc của người lớn, sau đó, biết mạnh dạn tin tưởng trao phó công việc đó để các em tự chơi, tự làm, tự giải quyết trong khả năng của các em ...

TÌM HIỂU TÂM LÝ TRẺ EM - PHẦN 2


VI. LỨA TUỔI THIẾU NIÊN ( 11 – 14 TUỔI):

Các nhà tâm lý gọi lứa tuổi này là Quatrième Enfance. Trong phong trào Hướng Đạo thì ứng với tuổi Thiếu tức là thành viên tham gia các Đội của một Thiếu Đoàn.

Ở trường, các em bắt đầu chuyển lên học trường Phổ Thông Cơ Sở cấp 2, trước đây gọi là Trung Học Đệ Nhất Cấp, từ lớp đệ thất đến lớp đệ tứ. Ở Giáo Xứ, các em theo học các lớp chuẩn bị đón nhận Bí Tích Thêm Sức, sau đó một vài năm, nhiều nơi còn cho các em tiếp tục lên lớp Bao Đồng để tuyên tín trọng thể.

Các Tiểu Chủng Viện của các Giáo Phận hoặc các Đệ Tử Viện của các dòng tu nam nữ cũng bắt đầu tiếp nhận các em mà gia đình muốn cho đi tu, các em sẽ vừa học văn hóa vừa tập sống đời sống chung xa nhà.

Như vậy, rõ ràng các em ở độ tuổi này đã chuyển hẳn sang một giai đoạn phát triển về thể lý và tâm lý hoàn toàn mới, với các đặc nét khác hẳn lứa tuổi Thiếu Nhi trước đó.

Chúng ta cũng sẽ chú ý tìm hiểu và phân tích tâm lý của các em một cách thấu đáo, hầu có thể nhận định được vai trò giáo dục của người lớn bên cạnh các em quan trọng và cần thiết như thế nào.

1. CÁC EM THÍCH THẦN TƯỢNG HÓA NGƯỜI KHÁC:

Đến giai đoạn này, các em rất muốn tìm những con người nổi tiếng chung quanh để tôn sùng như những thần tượng ( idoles).

Với các em trai, có thể thần tượng là một cầu thủ bóng đá nếu các em mê chơi môn túc cầu, bản thân sẽ bắt chước y khuôn lối đi bóng, đầu tóc, số áo và cả đến những sở thích nho nhỏ của cầu thủ thần tượng ấy, không những ở các mặt tốt mà luôn cả các tật xấu.Với các em gái, thần tượng lại có thể là một cô diễn viên ngôi sao, một người mẫu thời trang, một nữ ca sĩ đang nổi tiếng, Top Ten trong nước hay ngoại quốc...

Và rồi, đã gọi là thần tượng, không sớm thì muộn, các em sẽ nhanh chóng thay thế bằng một thần tượng khác cùng loại hoặc chuyển hẳn sang lãnh vực khác, miễn là hợp với thị hiếu thời thượng của đám đông quần chúng, của bè bạn cùng trang lứa, và nhất là phải hợp với các sở thích cũng luôn tạm bợ, nhất thời của bản thân các em. Rõ ràng, các ấn tượng do các thần tượng ghi dấu nơi các em rất nhanh mà cũng chóng qua, cái sau chồng lấp mên cái trước, hời hợt, dễ đảo lộn.

Tuy nhiên, cái còn đọng lại và đi vào tiềm thức các em thì sẽ vô cùng tai hại nếu những ấn tượng đó đã kịp ăn sâu, trở thành một kiểu ứng xử, thái độ sống, cung cách hành động, và nhất là trở thành thứ lý tưởng mẫu cho đời các em.

Hiện tượng tôn sùng cá nhân là chuyện đương nhiên khó tránh khỏi cho các em ở độ tuổi này. Vì thế, người lớn không nên chọn cách thế ngăn cấm hay chỉ trích lên án các em một cách tiêu cực, nhưng hãy chủ động đến với các em, đáp ứng cho các em những mẫu người lớn thật sự quân bình, đáng tin cậy và có ảnh hưởng sâu xa trên các em về nhân cách. Họ vẫn luôn có đó, chung quanh và gần gũi với các em mà các em không ngờ.

Nhờ vậy, dần dần các em sẽ khám phá ra nơi chính con người đó những đặc nét xứng đáng cho các em khâm phục, yêu mến và noi gương, đồng thời vẫn nhận ra họ cũng chỉ là những con người tương đối, bình thường mà vẫn không hề tầm thường, không nổi tiếng những lại nhiều danh thơm tiếng tốt, đủ để cho các em hãnh diện và tự hào được làm “đệ tử”, làm “đàn em”, làm “học trò ruột”, làm “bạn vong niên” của những con người như thế trong sinh hoạt đời thường hằng ngày...

Cũng cần lưu ý rằng: ở lứa tuổi này, các em không thích sống loanh quanh trong khung cảnh gia đình. Bóng dáng người cha, người mẹ đâm ra quá quen thuộc, và sẽ là nhàm chán nếu cha mẹ quá khó chịu mà lại mắc nhiều khiếm khuyết trước com mắt xét đoán còn ngô nghê của các em. Từ đó, chính người lớn trong gia đình đừng ngạc nhiên và rơi vào khủng hoảng khi thấy các em đâm ra lì lợm, khó bảo, thích cãi lời cha mẹ !

Thay vào đó, các em bắt đầu mở rộng tình cảm mình theo chiều kích xã hội để tìm kiếm những người lớn thu hút hấp dẫn hơn mà các em chỉ gặp trong một số dịp, một số giờ trong ngày, hay một số ngày trong tuần.

Ở trường trung học, các em không còn học các môn với một thầy cô giáo, nhưng lại được học với nhiều thầy cô giáo khác nhau của từng môn. Các em sẽ so chiếu rất nhanh và chọn ra thầy cô nào là “thần tượng” theo tiêu chuẩn riêng của các em.

Ở các Đoàn thể sinh hoạt cũng thế, người Huynh Trưởng của các em được coi như những người anh người chị, biết hết mọi chuyện lý thú, thành thạo nhiều kỹ năng hấp dẫn, làm được mọi việc, ứng xử được trước mọi tình huống, và nhất là sẵn sàng gợi cho các em những sáng kiến mới lạ, những trò chơi lôi cuốn.

Với bè bạn ngang vai, các em bắt đầu nhận thấy cần cộng tác với nhau, không chỉ trong những trò nghịch ngợm mà cả trong các việc đứng đắn nghiêm chỉnh như học tập, sinh hoạt...

Do vậy, khái niệm năng động tập thể trong sinh hoạt và làm việc chung lúc này rất cần thiết nơi các Huynh Trưởng phụ trách các em để có thể biết cách gợi ý và tổ chức cho các em các sinh hoạt năng động bổ ích.

Tuy nhiên, ở ngưỡng cửa của một hai năm trước tuổi dậy thì, các em lại có những tham vọng riêng đôi khi khá mãnh liệt để tự khẳng định cá nhân mình, muốn mình nổi trội hơn các bạn cùng trang lứa. Do vậy mà bên cạnh các sinh hoạt năng động chung, các em vẫn muốn tách ra để sống với khả năng và sở thích riêng.

Do vậy mà ngành Thiếu của phong trào Hướng Đạo đã đáp ứng cho nhu cầu này của các em một cách tài tình bằng cả một chương trình thi lấy các chuyên hiệu hết sức đa dạng và phong phú ( sơ cấp cứu, sửa xe đạp, chơi tem, nuôi cá đá, chụp ảnh, hát sinh hoạt...).

Điều này lại càng khiến cho người Huynh Trưởng phải tỏ rõ bản lĩnh, sự đa năng và tháo vát của mình, hay nhất là biết liên kết và phối hợp các sở trường cũng như sở đoản của mình với một nhóm nhỏ các anh chị Huynh Trưởng khác để cùng nhau giúp các em trong mọi mặt sinh hoạt.

2. CÁC EM MUỐN TỰ TÌM HIỂU VỀ CHÍNH MÌNH:

Đặc nét tâm lý thứ hai này xem ra có vẻ đối lập mâu thuẫn với đặc nét vừa trình bày, thế nhưng, đây lại là một thực tế. Mặc dù nhìn chung, các em ở độ tuổi này vẫn còn hết sức hồn nhiên vô tư, nhưng từ sâu thẳm tâm hồn, các em đang dần dần hình thành một khái niệm mơ hồ về chính bản thân.

Các em rất dễ rơi vào trạng thái: khi thì co rút, thủ thế, ù lì trong một thứ vỏ sò kiên cố do chính các em tự dựng lên để đối phó với tha nhân và ngoại cảnh; khi thì bùng nổ những khiêu khích, chống đối rất ngô nghê ( ví dụ: dứt khoát không chịu ngủ trưa, không chịu ăn món cá, không chịu bỏ áo trong quần, không gài nút áo cổ... nếu như bị người lớn bắt buộc).

Các em loay hoay bối rối tự tìm hiểu, tự bắt gặp những khoảnh khắc vô nghĩa, hụt hẫng. Tâm trạng này khiến cho những nhận định và dự tính của các em bị đảo lộn, như thể dao động từ cực này sang cực kia, mới vui đó đã thấy buồn buồn ủ dột. Nhiều lúc các em còn rơi vào mặc cảm tự ti, mất niềm tin và đau khổ khi thấy thần tượng của mình bị sụp đổ trong phút chốc.

3. CÁC EM BƯỚC VÀO TUỔI DẬY THÌ:

Đặc biệt đối với các em gái, ở cuối độ tuổi này, các em bắt đầu bước vào giai đoạn dậy thì, chuyển từ một “bé-gái-đã-lớn” thành một “thiếu-nữ-còn-nhỏ”, với những biến đổi sâu xa và mạnh mẽ về tâm sinh lý.

Mặc cảm tự ti do vậy lại càng tác động dữ dội hơn nơi các em, rất dễ biến thành những cơn khủng hoảng khiến các em cau có, khó chịu, lầm lì, thích rút vào một góc riêng ngay nơi chốn đông người.

Mặt khác, các em đâm ra uể oải, lười biếng, không thích làm những loại công việc đã quen thuộc nhàm chán, khi bắt buộc phải làm thì ngán ngẩm, đâm ra hồ đồ hậu đậu, dễ “hư bột hư đường”...

Đối với các bạn trai đồng trang lứa, các em gái tự nhiên thấy mình lớn hơn hẳn cả về vóc dáng lẫn những suy nghĩ và sở thích, chẳng còn say mê những trò chơi nghịch ngợm con nít của lũ con trai như trước đây. Các em gái mang máng cảm nhận ra nơi bản thân mình, cái sau này sẽ được xác định là bản năng người phụ nữ trong xã hội và là thiên chức của người mẹ trong gia đình.

Ở nhà, các em bắt đầu quan tâm chăm sóc đến những đứa em nhỏ hơn trong gia đình, tập tành trông coi cửa hàng nếu cha mẹ buôn bán, thích học thêu thùa may vá, bắt đầu lo việc cơm nước giặt giũ nếu như gia cảnh không còn cho phép các em vui chơi vô tư lự.

Trong học tập, các em gái chịu khó chuyên cần và đương nhiên trổi vượt hơn các bạn trai, nhất là ở các môn ngoại ngữ, văn học, sử ký, địa lý và sinh vật. Nếu cho các em học các loại nhạc cụ như organ, piano, đàn tranh ngay từ độ tuổi này, các em gái sẽ rất mau tiếp thụ và phát triển năng khiếu nghệ thuật âm nhạc hơn các em trai.

Do vậy, ở đây, ngoài những kinh nghiệm chuyên môn tâm lý, người lớn cần có những kiến thức y học, đặc biệt trong khoa sinh lý giới tính để có thể là những người tham vấn đáng tin cậy của các em trong các mặt vệ sinh thân thể, học tập và năng khiếu.

Hãy giúp các em vượt qua được mọi khủng hoảng của lứa tuổi đang dậy thì để sau này chính các em sẽ can đảm và sáng suốt vượt qua nhiều khó khăn còn lớn hơn nữa trong cuộc đời.

Xin hãy đừng để các em hụt hẫng, thiếu sự hướng dẫn nghiêm túc, khiến cho các em rơi vào tình trạng tự mình mầy mò khám phá mà tự định hình những quan niệm và mặc cảm tai hại khôn lường về tính dục.

4. CÁC EM THÍCH ĐÁNH GIÁ NGƯỜI LỚN:

Các em thường có khuynh hướng nhận định những sự việc xẩy tới trong đời sống hằng ngày, đồng thời cũng thích lượng giá mọi người chung quanh một cách khá sắc bén, Đôi khi lại rất khôi hài châm biếm.

Những suy nghĩ này đa phần là phiến diện và cực đoan nhưng lại không hẳn là vô căn cứ ( ví dụ: Hôm nay thầy hiệu trưởng cau có gắt gỏng hơn mọi ngày, chắc là thầy mới hụt trúng số... Ba mới đi hớt tóc về, sao trông ba có vẻ ngố ngố thế nào ấy... Thế là má lại mắng mình nữa rồi, đúng là má chỉ thương mấy thằng em trai của mình mà thôi... Tối nay, lúc sinh hoạt vòng tròn, anh Huynh Trưởng cứ đá lông nheo với chị Huynh Trưởng hoài, coi bộ họ “chịu” nhau rồi đó...).

Cứ thế, các em lặng lẽ quan sát, suy luận rồi lại cũng âm thầm tự rút ra nhận xét đánh giá mà có khi chẳng bao giờ chịu phát biểu trực tiếp. Nó cứ hình thành dần nơi các em những quan niệm hoặc là quá xét nét người khác, hoặc là lại rơi vào mặc cảm tự ti hay tự tôn.

Hậu quả là các em rất dễ tránh né người lớn, lủi thủi, khép kín hoặc bướng bỉnh, lì lợm, không phục thiện.

Do vậy, người lớn phải cố gắng giữ cho bản thân có được một đời sống tương đối mẫu mực trong nề nếp tác phong cũng như liêm khiết trong sáng trong nhân cách luân lý.

Hãy là một tấm gương soi càng ít tỳ vết càng tốt, để các em có thể soi mình, tìm được một sự quý mến, khẩu phục mà cũng tâm phục, từ đó thiết lập được một mối tương giao hai chiều trong giáo dục và huấn luyện cho các em và cho chính bản thân người lớn nữa.

5. CÁC EM THÍCH LÀM NHỮNG VIỆC LỚN LAO:

Trong sinh hoạt tập thể hay cộng đồng, các em thường tỏ ra uể oải lười nhác, không thích làm những việc quen thuộc và bình thường do người lớn giao cho.

Nếu người lớn dùng cách thức ra lệnh để buộc các em phải làm, thì dù đã quen thạo với công việc đến đâu đi nữa, các em cũng sẽ cố tình tỏ ra thờ ơ với công việc, hoặc cố tình làm thật vụng về.

Rồi khi người lớn có ý chê bai hay la rầy, các em lại cảm thấy khoái trá trong bụng, cho rằng đã thành công khi làm người lớn phải một phen bị hố, lần sau đừng có mà ép các em phải làm loại công việc ấy nữa, càng khoẻ chứ sao !

Ngược lại, trước một công việc thật sự mới lạ, hứa hẹn nhiều khó khăn và đòi hỏi trách nhiệm cao, thì dù chưa biết cách phải làm thế nào, chưa quen thao tác gì cả, các em cũng sẽ phấn khởi tình nguyện nhận ngay công việc đó, sau đó, bằng mọi giá các em sẽ học hỏi cách thức làm thật mau lẹ, lại còn nẩy ra thêm nhiều sáng kiến. Và như thế, các em sẽ hoàn thành công việc hết sức tốt đẹp, vượt trên mọi dự đoán của người lớn.

Riêng đối với các em nam, dường như các em càng cảm thấy được khích lệ hăng hái nếu như các em tưởng tượng ra thêm, một cách hơi cường điệu về công việc vốn dĩ thật bình thường đơn giản, khoác lên cho nó một tầm vóc quảng đại phi thường, đầy hy sinh lớn lao, hay hết sức anh hùng hào hiệp.

Các em trai hình dung mình là một thứ “anh hùng”, dám can trường đứng ra đương đầu giải quyết những chuyện tầy đình mà cả đến người lớn cũng còn phải cân nhắc e dè mới dám nhận dám làm ! Cũng đừng quên là các em sẽ tỏ ra hãnh diện tự hào ghê lắm, nếu như, khi nhận làm một “công trình” nào đó mà lại có mặt các bạn gái đồng trang lứa vốn thường bị các em cho là hạng “nữ nhi” chân yếu tay mềm, phải trông dựa vào sức vóc và trí khôn của “cánh đàn ông” !

Đối với người lớn, trước hiện tượng muốn “chơi nổi” nói trên, chúng ta nên bình tĩnh, không vội lo ngại, nhưng biết tạo cơ hội để các em khẳng định được “thế giá” của mình cho đúng mức mà vẫn không đánh mất sự hồn nhiên trong sáng.

Cần nhớ rằng: niềm tự hào và hãnh diện chính là một trong những phương cách tự giáo dục và tự huấn luyện rất hiệu quả, hơn hẳn những lời nói khích lệ suông, những bài học đạo đức “chay”, miễn là đừng đẩy các em đi quá xa mà rơi vào thói kiêu căng hợm hĩnh hết sức tai hại cho nhân cách các em sau này.

6. CÁC EM RẤT THÍCH SỐNG HƯỚNG NGOẠI:

Ở cuối độ tuổi này, đối với các em trai 14, 15 tuổi, không gian và bầu khí trong gia đình dường như quá chật chội và ngột ngạt, quen thuộc đến nhàm chán, không còn gợi ra được những trò chơi hấp dẫn cho đám bạn đông đảo của các em.

Mặt khác, tương quan của các em với mọi người chung quanh đã mở ra khá rộng, không chỉ dừng lại ở cha mẹ, anh chị trong gia đình. Do vậy, thời gian sống của các em đa phần là ở bên ngoài gia đình, chẳng đặng đừng lắm các em mới có mặt ở nhà để ăn hai bữa cơm, và để lăn ra ngủ sau một ngày đã thỏa chí bình sinh, thỏa sức ngang tàng, vùng vẫy tung hoành ở trường lớp, ở sân nhà thờ, ở sân banh, ở công viên, và có khi ngay trên lòng lề đường phố nữa.

Trong phong trào Hướng Đạo, ngành Kha được mở ra cho các em ở độ tuổi gọi nôm na là “lỡ cỡ, không giống ai” này. Các em không còn hoàn toàn là trẻ em mà cũng chưa hoàn toàn là người lớn. Vóc dáng đang phát triển, năng lượng trong cơ thể dường như lúc nào cũng thừa thãi, thúc giục đầu óc và tay chân các em phải luôn hành động.

Với các em nam, thanh quản bắt đầu thay đổi làm cho vỡ tiếng, giọng đang trong trẻo như “thiên thần” bỗng trở nên ồ ồ trầm đục như đàn ông. Ở các ban tốp ca, hợp ca nhà trường hay các ban hát lễ sinh nhà thờ, các em thấy mình đâm ra “phá bè”, nếu có ai lỡ miệng gọi đùa là giọng “vịt đực” thì các em rất dễ nổi xung vì tự ái, lẳng lặng bỏ ra với một tổn thương sâu xa.

Trong học tập, các em nam cũng gặp trở ngại về phát âm trong giờ sinh ngữ hay trong các buổi thuyết trình, luận nói. Các em có cảm giác bị các bạn gái “cười ruồi” chế nhạo ngầm, cứ thế mà ăn nói câu cú lại càng đâm ra lúng túng ngọng nghịu.

Mặc cảm thất bại trong mọi sự luôn luôn đeo đuổi các em, làm các em đâm ra hay quạu cọ với mọi người và bực bội với chính mình, đưa tới việc thích “cúp cua” trốn học, lang thang phá phách ngoài phố, đua xe bạt mạng, lê la ở các tiệm cà phê, rất dễ rơi vào tệ nạn nghiện ngập xì ke ma túy và trộm cắp.

Ngược lại, về các môn thể dục thể thao và về mặt sinh hoạt các trò chơi thi đua hay đối kháng, các em thấy mình tự tin với sức vóc “trổ giò”, nhanh hơn, khoẻ hơn, “lì đòn” hơn.

Nhưng dẫu sao, những cuộc tranh tài như thế này có vẻ không còn tạo hứng thú nhiều so với các trò chơi lớn mang tính phiêu lưu mạo hiểm và khai phá, tổ chức ngoài thiên nhiên rộng lớn, trải qua nhiều trạm thử thách gian nan, kéo dài nhiều giờ hoặc nhiều ngày ròng rã, tiến hành vào ban đêm lại càng hấp dẫn hồi hộp ( trại bay, trèo núi băng rừng, thám hiểm hang động, đột nhập các ngôi nhà hoang, vượt sóng ra thăm đảo xa, leo đèo bằng xe đạp...)

Phải nói đầu óc các em trong giai đoạn này chịu ảnh hưởng rất nhiều bởi các truyện phiêu lưu và trinh thám hình sự trong các loại sách báo phim ảnh, có lợi về mặt kích thích trí tưởng tượng và sư gan dạ nhưng cũng lại gây ra những hậu quả tai hại như: liều lĩnh dại dột theo kiểu “anh hùng rơm”, phung phí sức khoẻ vào những cái vô bổ, nhất là khích động tính hiếu chiến manh động, dễ đưa tới phá phách, bạo lực.

Riêng với các em gái, vấn đề có khác đi, cũng hướng ngoại nhưng là cái hướng ngoại trong tâm tưởng. Kể ra thì các em gái ngại ra khỏi nhà, xa khung cảnh quen thuộc của gia đình, hơn nữa, dẫu sao các em cũng tương đối đã khá lớn để có những bổn phận và công việc riêng phải làm ở nhà sau khi đi học về. Thế nhưng, tâm hồn các em thì lại “bay” đi rất xa.

Các em thích viết nhật ký, thích chép lại các bài thơ tình học trò và các bài hát nhẹ nhàng lãng mạn của tuổi mới lớn mà các em hết sức ưa chuộng. Đặc biệt, mỗi độ hè sang, vào dịp bãi trường, các em gái rất thích làm một tập lưu bút để xin các thầy cô mà các em yêu mến ghi vào vài giòng khen ngợi khuyên nhủ, và sau đó tiếp tục chuyền tay đến các bạn đồng trang lứa.

Nhìn chung, ở lứa tuổi giao thời và dậy thì cho cả hai phái, các em đều muốn mở ra thêm nhiều mối tương giao với mọi người, cho dù các liên hệ này cũng sẽ chóng qua đi, phai nhạt dần với thời gian, hoặc rất mong manh, khó lưu tồn đến khi các em trưởng thành, chỉ cần một xích mích nhỏ là đổ vỡ ngay, và sẽ còn là những kỷ niệm nhẹ nhàng man mác của một thời niên thiếu học trò.

Do vậy, cha mẹ, các thầy cô giáo và các Huynh Trưởng khi đối diện với các em phải hết sức năng động mà kiên nhẫn, quyết đoán mà dịu dàng, cương nghị mà bao dung, nhạy bén mà tế nhị.

Ngoài ra, sở trường phải chuyên sâu mà sở đoản thì phải đa dạng, lãnh vực nào cũng biết tương đối vững, đủ để theo kịp và nhất là để đón đầu, thu phục được lòng tín nhiệm của các em, hầu kịp thời giúp đỡ, dẫn dắt các em vượt qua những khủng hoảng có tính “nổi loạn”.

Đối với các em nam, cần biết định hướng một cách khéo léo, vận dụng và chuyển hóa các “năng lượng thặng dư” cũng như những đặc nét tâm lý của các em vào việc “khai phá” đầy lý thú mà vẫn đồng thời “giúp ích” cho bản thân các em, cho mọi người chung quanh và cho cả cộng đồng xã hội.

Cần phải hình thành dần dần nơi các em bản phác họa cho một mẫu người đàn ông đầy nam tính trong tương lai, lịch sử, quả cảm, thông minh, hữu ích cho xã hội và nhân loại, nhưng cũng sẽ là một người chồng, người cha cao thượng, đôn hậu, nhân ái, có một chút nữ tính và nhất là biết tôn trọng người phụ nữ chứ không chỉ “ga-lăng” hời hợt bên ngoài.

Riêng các em nam có ý hướng đi tu thì rất cần được chuẩn bị tốt về trí thức, óc phán đoán, tính thích nghi, sự nhạy cảm với các vấn đề của Giáo Hội để sau này các em sẽ là những tu sĩ, những linh mục có lòng đạo dức, chí truyền giáo và nhất là quân bình về nhân cách của một người đàn ông độc thân.

Đối với các em nữ, tuổi dậy thì sẽ qua đi, để chuẩn bị chu đáo cho các em bước vào tuổi thiếu nữ, người lớn cần hết sức nâng niu cẩn trọng, giúp đỡ các em sớm trưởng thành để tự tin, sáng suốt, không bị rơi vào cạm bẫy của xã hội đang ngày càng tục hóa, đầy cám dỗ về danh vọng, tiền bạc và sắc dục.

Cái tích cực hơn nữa là khích lệ các em nữ vừa triển nở nhân cách và tri thức, hướng đến tha nhân và cuộc đời nhưng lại vừa ý thức được trách nhiệm của bản thân trong gia đình là nơi mà tương lai các em sẽ đóng vai trò hết sức quan trọng của một phụ nữ Việt Nam, làm vợ, làm dâu, làm mẹ hoặc làm nữ tu.

Các cô giáo, các chị Huynh Trưởng sẽ vừa là người chị, người bạn, lại vừa là một người mẹ của các em gái, tạo sự đồng cảm trong cùng giới phụ nữ, chia sẻ một cách tế nhị và chân thành những kinh nghiệm cụ thể đời thường của chính bản thân mình cho các em, nhất là về mặt sinh lý và tâm lý.

Các thầy giáo, các anh Huynh Trưởng phải biết giới hạn về phái tính của mình để kiềm chế, không ở quá xa một cách nghiêm khắc lạnh lùng, nhưng cũng không ở quá gần, dễ rơi vào các tình huống ”cheo leo” hiểm nghèo trước các em gái. Tốt nhất, hãy để cho các em tin phục chứ đừng thân tình quá đến mức suồng sã.

Cuối cùng, phải nói rằng hiện nay, trong một xã hội mở, đang không ngừng tăng trưởng về kinh tế và khoa học, người lớn nói chung không những thiếu quan tâm đối với các em trong tương lai sẽ là thế hệ kế thừa của mình, mà ngược lại, còn trực tiếp hoặc gián tiếp làm hỏng các em ngay trong gia đình, ở trường học, tại giáo xứ, nơi đường phố và cả ngoài xã hội.

Do vậy, gánh nặng trách nhiệm của những người lớn còn quan tâm thao thức đến việc giáo dục và huấn luyện nhân cách cho các em lại càng hết sức lớn lao và hệ trọng, nhất là trong giai đoạn cuối của tuổi vị thành niên.

VII. KẾT LUẬN:

Xin được kết thúc tập chia sẻ “Tìm Hiểu Tâm Lý Trẻ Em” này bằng một lời mời gọi của Đức Khổng Phu Tử, tuy đã rất cổ xưa nhưng lại không hề lạc hậu: “Kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân” nghĩa là “điều gì chúng ta không muốn người khác làm cho mình thì cũng đừng làm cho người khác”.

Để tích cực, chủ động và hướng thượng hơn nữa, phải nói thêm một cách cụ thể, ứng hợp với vấn đề giáo dục vừa trao đổi, đó là:

Điều gì chúng ta đã từng muốn người lớn làm cho mình lúc chúng ta còn là trẻ em, thì chúng ta cũng hãy làm tất cả những điều ấy mộc cách tận tụy ân cần cho các em hiện còn đang nằm trong vòng tay giáo dục yêu thương của chúng ta.

NHỮNG RỐI LOẠN TÂM SINH LÝ CỦA TUỔI MỚI LỚN


Dưới đây là một bài viết được chọn từ Tạp Chí Thế Giới Mới số 408, ra ngày 16.10.2000 đăng trong mục Giáo Dục Giới Tính, Lê Nguyễn dịch lại từ tạp chí Elle số tháng 9.2000.

Chúng tôi thiết nghĩ bài báo có thể rất cần thiết để các bạn Huynh Trưởng và các Giáo Lý Viên tham khảo thêm bên cạnh việc tìm hiểu Tâm Lý các Lứa Tuổi vừa trình bày ở bài trước.
Lời Tòa Soạn Tạp Chí Thế Giới Mới:

Tuổi mới lớn là một trong những giai đoạn quan trọng nhất của đời người, góp phần xác định một cá thể chưa hoàn toàn qua khỏi quãng đời thơ ấu, đồng thời chưa có được những đặc tính của một người thật sự trưởng thành.

Những biến đổi, thậm chí rối loạn về Tâm Sinh Lý của lứa tuổi này cần được bản thân họ và các bậc cha mẹ và thầy cô giáo hiểu rõ để có thể nghĩ đến những cách cư xử phù hợp...

1. BIẾN ĐỔI SINH LÝ Ở TUỔI MỚI LỚN:

Trong cơ thể con người, nhiều chất hóa học đóng những vai trò kỳ thú có thể sánh ngang với những câu chuyện thần tiên ngoài đời. Chiếc rào chắn ngăn cách tuổi thơ ngây với lúc trưởng thành là giới hạn cao nhất mà mỗi con người đều cần phải vượt qua.

Trong cái lò luyện của tuổi dậy thì, người ta nhìn thấy sự sục sôi của chất men hóa học, và từ đó một con người mới hình thành. Ở những xứ nhiệt đới, con gái mới đến tuổi 11 là đã có thể trải qua thời kỳ đầy những biến động của tuổi mới lớn, trong khi ở những vùng ôn đới, thời kỳ này thường diễn ra vào năm 15 – 16 tuổi. Con trai thường có những diễn biến của tuổi mới lớn chậm hơn con gái 2 năm.

Sự biến đổi sinh lý của tuổi mới lớn là bước chuẩn bị cho cơ thể họ đảm nhiệm chức năng cơ bản là sinh sản để duy trì nòi giống. Hầu như không có cơ quan hay mô nào mà không trải qua những thay đổi sâu sắc. Tim và phổi phát triển nhanh gấp 3 lần so với những năm trước đó. Tuyến giáp nằm ở cổ to ra theo tỷ lệ sự phát triển của cơ thể, trong khi ở lồng ngực, tuyến ức đầy bí ẩn lại nhỏ dần để sau này biến mất vĩnh viễn.

Hồi còn nhỏ, các đầu xương được bọc bằng một lớp sụn, tham gia vào quá trình tăng trưởng của cơ thể. Đến tuổi dậy thì và ít lâu sau đó, lớp sụn này bắt đầu chứa calcium, các đầu xương cứng dần, sự tăng trưởng chậm lại, cuối cùng thì ngưng hẳn. Ngay cả da cũng thay đổi cấu trúc, các tuyến bã nhờn hoạt động mạnh hơn, các lỗ chân lông nở rộng ra, dễ dàng làm mồi ngon cho vi trùng xâm nhập tạo thành mụn.

Tuổi dậy thì được phát động bởi tuyến yên – một bộ phận nhỏ, chỉ bằng hạt đậu Hà-lan, nằm ở mặt dưới của não. Người ta chưa được rõ lắm về việc tuyến yên hoạt động như thế nào, nhưng kết quả hoạt động của nó thì khá rõ: nó tiết ra một lượng nhỏ hormone thúc sinh dục (hormone gonadotrope) để kích thích hoạt động của buồng trứng ở phái nữ và của tinh hoàn ở phái nam. Thời thơ ấu, những bộ phận này ngủ yên, đến khi được tuyến yên kích thích, chúng bắt đầu sản xuất các hormone riêng của chúng.

Ở một cô gái mới lớn, các buồng trứng bắt đầu hoạt động và tiết ra một lượng thật nhỏ chất oestrdiol, chỉ bằng 1 / 1.000 khối lượng của một hạt đường mỗi ngày. Những chất này lại có đủ sức mạnh để biến một cô bé thành một cô gái sắp bước qua ngưỡng cửa của sự trưởng thành. Khi đó, cô bắt đầu lớn nhanh, chiều cao tăng khoảng 8 cm / năm, bỏ những chàng trai cùng tuổi lại đàng sau.

Về phát triển xương, ở cô gái mới lớn, khung chậu rộng ra, chuẩn bị cho những lần sinh nở về sau. Các tuyến vú phát triển, lúc đầu chậm, rồi càng lúc càng nhanh, dưới tác động của các hormone. Các mô ở đường sinh dục dày lên và vững chắc hơn để có thể “đối phó” với sự căng thẳng của các lần sinh nở.

Dạ con từ kích cỡ của một quả mận thời thơ ấu, đạt đến kích cỡ của một quả lê. Tuy nhiên, phải chờ khoảng 2 năm từ lúc bắt đầu có những chuyển biến trên để cơ thể người phụ nữ có thể sẵn sàng cho việc sinh nở.

Trữ lượng của buồng trứng cũng là một chi tiết thú vị. Nó chứa gần 420.000 trứng chưa thành thục, nhưng trong suốt thời gian sinh nở của một người phụ nữ, chỉ có từ 400 đến 500 trứng là đạt đến sự thành thục mà thôi. Xuất phát từ một sự chọn lựa đầy bí ẩn, vào mỗi kỳ kinh nguyệt, chỉ có một trong hai buồng trứng cung cấp cho dạ con một cái trứng thành thục.

Khoảng một tuần lễ trước khi trứng rụng, dạ con cũng có những chuyển biến dưới tác động của các hormone. Thành dạ con dày ra, trong khi một mạng lưới mạch máu mới xuất hiện, sẵn sàng để nuôi phôi. Trong trường hợp không xảy ra sự thụ thai, những mạch máu này trở nên vô dụng, chứng tự hủy, tạo ra kỳ kinh nguyệt đầu tiên của cô gái mới lớn.

Ở nam giới, những biến đổi sinh lý của tuổi mới lớn cũng quan trọng không kém. Dưới tác động của những hormone do tuyến yên tiết ra, tinh hoàn phát triển và trở nên thành thục. Đến lúc này, nó đảm trách hai chức năng: tiết ra testostérone, còn gọi là hormone nam, để lưu chuyển trong máu, và sản xuất một lượng tinh trùng cần cho sự thụ tinh với trứng.

Tác dụng của testostérone thể hiện rất rõ: hệ lông biến đổi, những sợi râu đầu tiên xuất hiện, cơ thể phát triển với một tốc độ đầy ấn tượng, thường cao thêm 15 cm / năm và khối lượng tăng hơn 10 kg cũng trong khoảng thời gian đó.

Testostérone cũng làm phát triển tuyến tiền liệt, một loại kho trữ chất dịch giúp cho tinh trùng bơi lội bên trong và tự nuôi sống chúng. Ở tuổi mới lớn, tuyến tiền liệt từ kích cỡ một hạt đậu nay to bằng một hạt dẻ, và chàng thiếu niên đã có thể tham gia vào quá trình sinh sản.

2. RỐI LOẠN TÂM LÝ Ở TUỔI MỚI LỚN:

Về mặt tâm lý, tuổi mới lớn là giai đoạn có những rối loạn sâu sắc. Lúc ấy, như có hai nhân vật cùng tranh nhau một cơ thể duy nhất, và bên nào cũng muốn chiếm ưu thế. Người thứ nhất muốn bảo tồn những đặc quyền của thời thơ ấu; còn người thứ hai lại thích sử dụng ưu thế của tuổi trưởng thành.

Được trang bị về mặt sinh lý như một người trưởng thành, nhưng lại được định hướng bằng những phản ứng trẻ con, tuổi mới lớn thường chất chứa lắm điều rồ dại. Điều đó rất nguy hiểm khi các đối tượng ngồi trước tay lái xe gắn máy, đứng trên cao phóng xuống giòng sông đang chảy xiết hay lao vào những hoạt động tính dục quá sớm.

Các thế hệ thường không tìm thấy tiếng nói chung. Sự phản kháng đối với cha mẹ và người lớn không có gì là bất thường khi đứa trẻ sắp bước vào thế giới của người lớn.

Sinh hoạt của tuổi mới lớn lắm khi chứa đựng không ít điều kỳ dị. Các em có thể chôn chân hàng giờ liền trước gương soi, bị ám ảnh về một hình bóng khác phái nào đó, hay cắt chải mái tóc theo một kiểu cách ngược đời.
Tư tưởng của các em lúc nào cũng như sục sôi lên khiến các em không chú ý mấy đến những gì đang thấy đang nghe. Các bậc cha mẹ hay thầy cô giáo thường than phiền là con trai hay học trò của họ như đang sống trên mây, mơ màng và lười biếng.

Điều này chỉ đúng một phần, vì người ta biết rằng sự thấp thỏm lo âu của tuổi mới lớn thường kéo theo mệt mỏi mà những thiếu niên ở độ tuổi này thường dành phần lớn thời gian cho sự... lo âu vơ vẩn thẫn thờ, vì thế, những dấu hiệu mệt mỏi chán nản là điều khó tránh khỏi.

Các cô gái ở tuổi mới lớn cũng thế. Các em cũng gặp nhiều khó khăn khi phải từ giã tuổi thơ ngây để bước vào một thế giới còn rất xa lạ. Trước tiên, cái cơ thể đổi mới hoàn toàn thường mang đến cho các em lắm điều phiền lụy. Các em phải che kín bộ ngực đầy vẻ e ấp, cảm thấy xấu hổ lúc hành kinh, và những điều này khiến các em trở nên khép kín, gò mình trong một thế giới chật hẹp và kỳ bí.

Thường thì các em không còn hoàn toàn tin vào cha mẹ nữa. Cũng giống các cậu con trai, các em chỉ chú tâm đến bản thân mình, mỗi một khiếm khuyết nhỏ của cơ thể cũng dễ trở thành một bi kịch.

Sở thích của các cô gái mới lớn cũng thay đổi. Các em không thích những cậu con trai cùng tuổi nữa. Với họ, những anh chàng này vẫn còn trẻ con quá. Các em chỉ chú ý đến những chàng trai lớn tuổi hơn, trông có vẻ già dặn và hấp dẫn. Một đặc trưng nữa của tuổi mới lớn, đó là sự tôn thờ thần tượng, một ca sĩ, một diễn viên điện ảnh hay một người mẫu thời trang chẳng hạn...

Tuổi mới lớn là như thế đó. Những biến đổi, kể cả những rối loạn về Tâm Sinh Lý là điều khá bình thường. Vấn đề đối với các bậc cha mẹ hay thầy cô giáo là nắm vững những trạng thái mới mẻ đó của con cái hay học trò của mình để đề ra những cách ứng xử và hướng dẫn thích hợp. Sự kiên trì và hiểu biết luôn là những yếu tố không thể thiếu khi đối diện với tuổi mới lớn.